Số người đang online : 10 NGHĨA AN HỘI QUÁN (Miếu Quan đế, Chùa Ông) - Danh thắng - danh nhân, văn hóa - ẩm thực Việt Nam

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

NGHĨA AN HỘI QUÁN (Miếu Quan đế, Chùa Ông)
post image
NGHĨA AN HỘI QUÁN (Miếu Quan đế, Chùa Ông)

Số 43-VH/QĐ ngày 7/01/1993.

NGHĨA AN HỘI QUÁN
(Miếu Quan đế, Chùa Ông)
(Thành phố Hồ Chí Minh)

Tên di tích: Nghĩa An hội quán.
Loại công trình: Miếu.
Loại di tích: Di tích kiến trúc nghệ thuật.
Quyết định: Số 43-VH/QĐ ngày 7/01/1993.
Địa chỉ: 676 đường Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5.
Thông tin về di tích: Nghĩa An hội quán còn có tên khác là Miếu Quan đế, Chùa Ông.
Miếu vốn là hội quán của bang Triều Châu, do người Triều Châu và người Hẹ ở Triều Châu sang Việt Nam sinh sống thành lập. Không rõ miếu được xây dựng năm nào, có lẽ muộn nhất là đầu thế kỷ XIX vì khoảng năm 1818, khi viết về chợ Sài Gòn xưa, Trịnh Hoài Đức đã nhắc đến hội quán Triều Châu: "Đầu phía Bắc đường lớn có miếu Quan Thánh và ba hội quán Phúc Châu, Quảng Đông và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu... Hễ gặp tiết đẹp đêm trăng, các ngày tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn, đặt án, đua tranh kỳ xảo...".
Kiến trúc: Như phần lớn các đền miếu của người Hoa, miếu có kiến trúc tổng thể hình chữ khẩu. Sân miếu khá rộng, gần hai ngàn mét vuông, chiếm hơn phân nửa diện tích khuôn viên. Phần còn lại gồm tiền điện, sân thiên tỉnh, nhà hương, chính điện và văn phòng hội quán dọc hai bên các điện thờ. Kiến trúc và trang trí ở miếu thể hiện rõ nét phong cách Trung Hoa qua thiết kế, qua các tượng, phù điêu bằng gốm trên mái ngói hay các bông hoa chạm ngược, tượng kỳ lân, diềm gỗ... trên bộ vì kèo sơn màu đỏ thắm...
Từ hai cổng lớn vào đến cửa miếu có năm cặp kỳ lân lớn nhỏ bằng đá đặt đối xứng nhau. Đẹp hơn cả có lẽ là cặp "lân hàm châu" (lân ngậm ngọc) chầu hai bên cửa. Phía trên, trước biển chữ "Nghĩa An hội quán" treo bức nghi môn làm năm 1903 chạm nổi cảnh "Lục Quốc phong tướng". Trên vách mặt tiền hai bên cửa miếu chạm chìm các chữ Hán và sáu bức chạm cành trúc khác nhau, là những tác phẩm chạm khắc đá giá trị.
Nội thất miếu trang nghiêm với những cột gỗ cao treo câu đối, khám thờ... chạm trổ tinh tế từ những điển tích Trung Hoa đến những sinh hoạt đời thường, những con vật trong tứ linh xen lẫn tôm, cua, cá, mực... Chính điện miếu, giữa có gian thờ Quan Thánh đế quân trang trí bao lam lưỡng long tranh châu. Tượng Quan Đế, mặc áo gấm xanh, ngồi trên ngai, đặt trong khám thờ chạm viền nhiều lớp tùng - hạc, mai - điểu, mẫu đơn - trĩ, Bát tiên giao chiến thủy quái... Đứng hầu hai bên trước bệ thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương.
Hai bên tả hữu có gian thờ Thiên Hậu nguyên quân và Tài Bạch tinh quân (Thần Tài) bài trí giống nhau với bao lam phụng hoàng và khám thờ chạm cảnh vinh qui bái tổ, đánh cờ, chèo thuyền, giăng lưới, mục đồng cưỡi trâu, mai điểu, trúc điểu... Tượng Bà Thiên Hậu bằng gỗ, ngồi trên ghế chạm, theo hầu Bà có hai thị nữ và hai vị Thiên lý nhãn, Thuận phong nhĩ. Thần Tài được thể hiện bằng tượng gỗ, cũng ngồi trên ghế chạm đầu rồng, hai bên có Chiêu Tài đồng tử đứng hầu.
Ngoài gian thờ ở chính điện, còn có bàn thờ Quan Đế ở trung điện, đặt trước bàn thờ Văn Xương đế quân tức Khổng Tử. Tượng Quan Đế bằng gỗ thếp vàng, được làm cách nay hơn một trăm năm.
Chính giữa tiền điện bày một hương án, trên đặt chiếc lư hương bằng đồng làm vào năm Đạo Quang thứ 5 (1825). Chuông cao 39cm, đường kính 46cm, hai bên đúc hai đầu lân, đường nét tinh xảo, phía trước có hàng chữ "Quan Thánh đế quân". Hai bên tiền điện bài trí hai gian thờ đối mặt với chính điện. Phúc Đức chính thần (Thần Đất) và hai người hầu được thờ ở gian bên trái. Góc bên phải có tượng Mã Đầu tướng quân.
Quan Đế là vị thần được thờ chính nên phần lớn trong hơn 50 hoành phi, câu đối chạm chữ Hán rất mỹ thuật đều có nội dung ca ngợi ông như: "Vạn cổ tinh huy" (Sao sáng muôn đời), "Thiên cổ nhất nhân" (Người xưa nay chỉ có một).
Miếu Quan Đế - Nghĩa An hội quán - không chỉ là nơi đông đảo đồng bào Hoa Việt đến chiêm bái; một di tích về sự hiện diện của người Hoa gốc Triều Châu ở thành phố Hồ Chí Minh mà còn có giá trị về nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật chạm đá và nghệ thuật chạm gỗ nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
 

0 Bình luận

Gửi bình luận:

Click here to cancel reply
Họ và tên
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Thư điện tử
Tỉnh thành