ĐỀN BÀ KIỆU
Tên di tích: Đền Bà Kiệu
Loại di tích: Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật
Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 226-VH/QĐ ngày 05 tháng 02 năm 1994.
Địa điểm: Số nhà 59 phố Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Thông tin về di tích
Đền Bà Kiệu có tên chữ là “Thiên Tiên điện”, được xây dựng từ thời Lê Thần Tông (thế kỷ XVII) ở địa phận làng Tả Vọng, nay là phố Đinh Tiên Hoàng, xế trước đền Ngọc Sơn.
Biển gỗ treo trên hậu cung trong đền viết: “Thiên Tiên điện” và 27 đạo sắc phong thần cúa các triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn cho biết đền Bà Kiệu thờ ba vị nữ thần: Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ và Đệ tam Ngọc Nữ (Quỳnh Hoa và Quế Hoa). Bà Liễu Hạnh còn có tên tôn kính là bà chúa Liễu, Chúa Sòng Mẫu Nghi thiên hạ, Mẫu Phủ Giày.
Thần phả cho biết: Công chúa Liễu Hạnh là con gái Ngọc Hoàng, vì đánh vỡ chén ngọc nên bị giáng xuống trần, mang tên là Giáng Tiên, lấy chồng là Đào Lang. Hết hạn đầy xuống trần gian bà lại trở về với Ngọc Hoàng. Thỉnh thoảng vẫn quay lại trần gian, mang theo hai tiên nữ là Quỳnh Hoa và Quế Hoa. Họ trú ngụ ở Phố Cát (Thanh Hoá), dạy dân cày cấy.
Theo tư liệu văn bia hiện còn cho biết, đền Bà Kiệu là một di tích hoàn chỉnh gồm phần kiến trúc và khuôn viên. Do có sự quy hoạch mở đường hồi đầu thế kỷ này nên đã tách kiến trúc làm hai phần. Tam quan ở sát Hồ Gươm, còn đền thờ ở về bên này đường, toạ lạc theo hướng nam, sát bờ bắc của hồ Hoàn Kiếm.
Tam quan gồm ba gian xây gạch, kiểu tường hồi bít đốc, mái lớp ngói ta. Khu kiến trúc chính của đền có quy mô lớn, kết cấu hình chữ Công, gồm nhà tiền tế, phương đình và hậu cung.
Nhà đại bái ba gian xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, mái nhỏ đều như gợn sóng. Bộ mái gần gũi với kiến trúc của cố đô Huế. Bờ nóc dạng bờ đinh, bên trên gắn hình cá hoá rồng bằng gốm hoặc men xanh đang nhìn vào bình nước thiêng ở giữa.
Bộ khung tiền tế định vị khá vững chắc, có 8 cột trụ, chu vi cột cái là 115 cm, cột quân là 105 cm. Các hàng cột hiện được làm bằng đá trắng, hình hộp chữ nhật mỗi cạnh 25 cm. Nhà tiền tế có bốn tượng cá chép hoá rồng đặt trên xà và dưới điểm của hai mái sau, trước. Các tường dẹt, được thể hiện khá sinh động, chau chuốt và đem lại hiệu qủa nghệ thuật đáng kể cho kiến trúc đền.
Liền sau tiền tế là một kiến trúc nhỏ dựng trên bốn chân cột lớn kiểu phương đình, hai tầng bốn mái. Bốn mái chạm mảng các hoa văn truyền thông phổ biến theo kiến trúc thời Nguyễn.
Hậu cung là nơi toạ lạc của các vị thần được thờ với một nếp nhà ngang xây gạch kiểu tường hồi bít đốc. Các nữ thần được toạ lạc trong một khám thờ lớn, chạm khắc cầu kỳ. Lớp trên gồm 3 pho trong toà Thánh Mẫu (Mẫu Thiên, Mẫu Thuỷ, Mẫu Địa). Lớp dưới có các tượng công chúa Liễu Hạnh và hai tiên nữ Quỳnh Hoa, Quế Hoa. Ngoài khám thờ này còn có bốn tượng nhỏ (2 tượng cô, 2 tượng cậu). Hai bên có hai khám thờ nhỏ, bên phải đặt tượng chầu Thủ đền, bên trái là Bà Chúa Thượng Ngàn.
Hai gian bên là nơi thờ những vị thần phổ biến trong các đền Mẫu như Ngọc Hoàng, các vị tôn ông. Các pho tượng này có kích thước nhỏ, tạo tác dưới thời Nguyễn (Thế kỷ XIX). Di tích đền Bà Kiệu hiện nay còn giữ được bộ sưu tập văn hoá lịch sử gồm nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau trải dài qua ba triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn.
Các khám, long ngai, hương án, án văn, câu đối, hoành phi… đều được chạm tỉ mỉ với các hình rồng, hoa dây, phượng vũ mang nét chạm thế kỷ XIX. Những đồ thờ này được sơn son thếp vàng lộng lẫy làm tăng vẻ đẹp của di tích. Các bia Cảnh Thịnh 8 (1800), Tự Đức 19 (1866)… cùng 27 đạo sắc phong từ triều Lê, Tây Sơn đến Nguyễn phong thần cho Bà Chúa Liễu và hai vị tiên nữ. Thời Lê có 3 đạo Cảnh Hưng 44 (1783), 3 đạo Chiêu Thống Nguyên niên (1787). Thời Tây Sơn có 3 đạo Quang Trung 5 (1792), 3 đạo Cảnh Thịnh nguyên niên (1793). Triều Nguyễn có các sắc đời Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khấnh và Duy Tân.
Đền Bà Kiệu là một trong những ngôi đền Mẫu được dựng sớm nhất ở nước ta. Đền gắn bó mật thiết với đời sống văn hoá tinh thần của Thăng Long, đặc biệt là đối với thắng cảnh Hồ Gươm và đền Ngọc Sơn. Chúa Liễu Hạnh đã mang đậm dấu ấn trong tâm thức cộng đồng người Việt từ xa xưa về những vị ‘tứ bất tử” của dân tộc.
Share on facebook 0 người thích - Thích
Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp...
ĐỀN BÀ KIỆU
Tên di tích: Đền Bà Kiệu
Loại di tích: Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật
Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 226-VH/QĐ ngày 05 tháng 02 năm 1994.
Địa điểm: Số nhà 59 phố Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Thông tin về di tích
Đền Bà Kiệu có tên chữ là “Thiên Tiên điện”, được xây dựng từ thời Lê Thần Tông (thế kỷ XVII) ở địa phận làng Tả Vọng, nay là phố Đinh Tiên Hoàng, xế trước đền Ngọc Sơn.
Biển gỗ treo trên hậu cung trong đền viết: “Thiên Tiên điện” và 27 đạo sắc phong thần cúa các triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn cho biết đền Bà Kiệu thờ ba vị nữ thần: Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ và Đệ tam Ngọc Nữ (Quỳnh Hoa và Quế Hoa). Bà Liễu Hạnh còn có tên tôn kính là bà chúa Liễu, Chúa Sòng Mẫu Nghi thiên hạ, Mẫu Phủ Giày.
Thần phả cho biết: Công chúa Liễu Hạnh là con gái Ngọc Hoàng, vì đánh vỡ chén ngọc nên bị giáng xuống trần, mang tên là Giáng Tiên, lấy chồng là Đào Lang. Hết hạn đầy xuống trần gian bà lại trở về với Ngọc Hoàng. Thỉnh thoảng vẫn quay lại trần gian, mang theo hai tiên nữ là Quỳnh Hoa và Quế Hoa. Họ trú ngụ ở Phố Cát (Thanh Hoá), dạy dân cày cấy.
Theo tư liệu văn bia hiện còn cho biết, đền Bà Kiệu là một di tích hoàn chỉnh gồm phần kiến trúc và khuôn viên. Do có sự quy hoạch mở đường hồi đầu thế kỷ này nên đã tách kiến trúc làm hai phần. Tam quan ở sát Hồ Gươm, còn đền thờ ở về bên này đường, toạ lạc theo hướng nam, sát bờ bắc của hồ Hoàn Kiếm.
Tam quan gồm ba gian xây gạch, kiểu tường hồi bít đốc, mái lớp ngói ta. Khu kiến trúc chính của đền có quy mô lớn, kết cấu hình chữ Công, gồm nhà tiền tế, phương đình và hậu cung.
Nhà đại bái ba gian xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, mái nhỏ đều như gợn sóng. Bộ mái gần gũi với kiến trúc của cố đô Huế. Bờ nóc dạng bờ đinh, bên trên gắn hình cá hoá rồng bằng gốm hoặc men xanh đang nhìn vào bình nước thiêng ở giữa.
Bộ khung tiền tế định vị khá vững chắc, có 8 cột trụ, chu vi cột cái là 115 cm, cột quân là 105 cm. Các hàng cột hiện được làm bằng đá trắng, hình hộp chữ nhật mỗi cạnh 25 cm. Nhà tiền tế có bốn tượng cá chép hoá rồng đặt trên xà và dưới điểm của hai mái sau, trước. Các tường dẹt, được thể hiện khá sinh động, chau chuốt và đem lại hiệu qủa nghệ thuật đáng kể cho kiến trúc đền.
Liền sau tiền tế là một kiến trúc nhỏ dựng trên bốn chân cột lớn kiểu phương đình, hai tầng bốn mái. Bốn mái chạm mảng các hoa văn truyền thông phổ biến theo kiến trúc thời Nguyễn.
Hậu cung là nơi toạ lạc của các vị thần được thờ với một nếp nhà ngang xây gạch kiểu tường hồi bít đốc. Các nữ thần được toạ lạc trong một khám thờ lớn, chạm khắc cầu kỳ. Lớp trên gồm 3 pho trong toà Thánh Mẫu (Mẫu Thiên, Mẫu Thuỷ, Mẫu Địa). Lớp dưới có các tượng công chúa Liễu Hạnh và hai tiên nữ Quỳnh Hoa, Quế Hoa. Ngoài khám thờ này còn có bốn tượng nhỏ (2 tượng cô, 2 tượng cậu). Hai bên có hai khám thờ nhỏ, bên phải đặt tượng chầu Thủ đền, bên trái là Bà Chúa Thượng Ngàn.
Hai gian bên là nơi thờ những vị thần phổ biến trong các đền Mẫu như Ngọc Hoàng, các vị tôn ông. Các pho tượng này có kích thước nhỏ, tạo tác dưới thời Nguyễn (Thế kỷ XIX). Di tích đền Bà Kiệu hiện nay còn giữ được bộ sưu tập văn hoá lịch sử gồm nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau trải dài qua ba triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn.
Các khám, long ngai, hương án, án văn, câu đối, hoành phi… đều được chạm tỉ mỉ với các hình rồng, hoa dây, phượng vũ mang nét chạm thế kỷ XIX. Những đồ thờ này được sơn son thếp vàng lộng lẫy làm tăng vẻ đẹp của di tích. Các bia Cảnh Thịnh 8 (1800), Tự Đức 19 (1866)… cùng 27 đạo sắc phong từ triều Lê, Tây Sơn đến Nguyễn phong thần cho Bà Chúa Liễu và hai vị tiên nữ. Thời Lê có 3 đạo Cảnh Hưng 44 (1783), 3 đạo Chiêu Thống Nguyên niên (1787). Thời Tây Sơn có 3 đạo Quang Trung 5 (1792), 3 đạo Cảnh Thịnh nguyên niên (1793). Triều Nguyễn có các sắc đời Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khấnh và Duy Tân.
Đền Bà Kiệu là một trong những ngôi đền Mẫu được dựng sớm nhất ở nước ta. Đền gắn bó mật thiết với đời sống văn hoá tinh thần của Thăng Long, đặc biệt là đối với thắng cảnh Hồ Gươm và đền Ngọc Sơn. Chúa Liễu Hạnh đã mang đậm dấu ấn trong tâm thức cộng đồng người Việt từ xa xưa về những vị ‘tứ bất tử” của dân tộc.
Share on facebook 0 người thích - Thích
0 Bình luận