ĐỀN QUỐC PHỤ
1. Tên di tích: Đền Quốc Phụ
2. Loại công trình: Đền
3. Loại di tích: Lịch sử
4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 15/2003/QĐ- BVHTT ngày 14 tháng 4 năm 2003
5. Địa chỉ: xã Chí Minh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương
6. Thông tin về di tích.
Năm bên tả ngạn sông Kinh Thầy, đền Quốc Phụ là một trong tám di tích thuộc “Chí Linh bát cổ” nổi tiếng được nhiều sử sách ghi nhận. Trước kia đền thuộc xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Nay di tích thuộc thôn Nẻo, xã Chí Minh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là đền thờ chính của Nhập nội Quốc phụ Thượng Tể Trần Quốc Chẩn - Một trong những danh tiếng kiệt xuất của nhà Trần, tài đức vẹn toàn hết lòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Gần 700 năm trôi qua, tên tuổi và sự nghiệp của Trần Quốc Chẩn luôn là niềm tự hào của đất và người Chí Linh nói riêng và Hải Dương nói chung.
Căn cứ vào các tài liệu chính sử và thư tịch cổ, Trần Quốc Chẩn nguyên là em vua Trần Anh Tông (1293 - 1314). Vào năm Hưng Long thứ nhất (1293) ông được phong Huệ Võ Đại Vương. Năm Hưng Long thứ 10 (1302) lại được phong nhập nội bình chương.
Đến năm Hưng Long thứ 20 (1312) biên giới phía Nam Đại Việt bị quân Chiêm Thành lấn chiếm. Nhận lệnh của triểu đình, Trần Quốc Chẩn đã cầm quân lên đường đánh dẹp, trận này ông phối hợp với tướng quân Đoàn Nhữ Hài bao vây, bức hàng quân Chiêm Thành thắng lợi, quân Trần không tốn một mũi tên nào. Đến năm Đại Khánh thứ 5 (1318), Trần Quốc Chẩn cùng tướng quân Phạm Ngũ Lão tiếp tục đi đánh dẹp quân Chiêm Thành, Trần Quốc Chẩn dẫn đầu đoàn quân tiên phong đi trước, Phạm Ngũ Lão bí mật tung quân đi đánh tập hậu phía sau. Bị đánh bất ngờ, quân Chiêm Thành vô cùng hoảng loạng, tháo chạy về nước, quân Trần thu được thắng lợi lớn, giữ yên bờ cõi quốc gia.
Do có nhiều công lao với triều đình, năm Khai Thái thứ nhất (1324), Trần Quốc Chẩn được vua Trần phong chức: Nhập nội Quốc phụ Thượng Tể – Chức quan đầu triều coi giữ Lục bộ Thượng Thư.
Sử cũ còn ghi nhận Trần Quốc Chẩn không chỉ là người có tài trong việc cầm quân xung trận mà ông còn là người nổi tiếng đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục. Ông là người trải thờ mấy triều, được Trần Anh Tông rất quý. Mỗi khi Minh Tông vào thăm Anh Tông, Thượng Hoàng thường hay đi cùng Trần Quốc Chẩn vì Anh Tông tin tưởng hơn cả, đem vua kí thác cho Quốc Chẩn dạy dỗ nên không cho Minh Tông vào thăm một mình, cốt để tình nghĩa vua tôi thêm phần khăng khít. Về sau Minh Tông lại lấy con gái của Quốc Chẩn nên càng tin dùng.
Vào những năm cuối đời, Trần Quốc Chẩn xin triều đình về quê sinh sống. Nhà ông ở ven sông lớn. Tục truyền ông có phép lạ: Những ngày chầu vua, buổi tối hôm trước ông còn ở nhà, vậy mà đến sáng sớm hôm sau đã có mặt ở Kinh Đô. Đó là bởi thời bấy giờ, đường thuỷ sông Thiên Đức (sông Thái Bình) đi lại thông suốt, ông dùng thuyền nhỏ sai người chở thật nhanh, chỉ một buổi chiều là đến nơi.
“Song vào năm Minh Tông giữ ngôi được 15 năm (tức đến năm 1392) tuổi đã cao mà cha lập được Thái Tử. Cha sinh ra Hoàng Hậu là Quốc Chẩn có ý chủ trương nên đợi Hoàng Hậu sinh con đích thì mới lập. Lợi dụng hoàn cảnh éo le đó, Cương Đông Văn Hiến Hầu (không rõ tên) là con của Tá thánh Trần Nhật Duật muốn đánh đổ Hoàng Hậu để lập Thái Tử Vượng (sau là Trần Hiến Tông) mới đem của đút cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu 100 lạng vàng bảo Phẫu vu cho cáo cho Quốc Chẩn có âm mưu làm phản. Vua cả tin cho là thật liền ra lệnh bắt giam ngay Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc ở kinh sư rồi đem việc ấy hỏi Thiếu Bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh với Văn Hiến, lại cùng với mẹ Vượng, đều là người Giáp Sơn (Kinh Môn) và đã từng làm thầy dạy Vương, liền trả lời: “Bắt hổ thì dễ, thả hồ thì khó”. Vua truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực. Hoàng Hậu Lê Thị muốn cho Trần Quốc Chẩn chết sớm để con mình được lập làm Thái Tử, liền cho người mang nước tẩm độc cho Quốc Chẩn uống, uống song thì chết”. [46,Tr174]
Vài năm sau gặp khi vợ cả và vợ lẽ của Trần Phẫu ghen nhau đem việc Văn Hiến Hầu đút vàng tâu lên vua. Việc giao xuống ngục quan xét, Lê Duy là người cương trực đem xét hỏi ngay ngày hôm ấy. Tên Phẫu bị tội “&;lăng trì”, Văn Hiến bị miễn tội chết, bị giáng xuống làm thứ dân, xoá tên trong sổ tôn thất của triều đình.
Đến năm Giáp Thân (1314), dưới thời Trần Dụ Tôn, một ông Vua nổi tiếng sáng suốt, vụ án Trần Quốc Chẩn được minh oan hoàn toàn. Triều đình phục chức: Nhập nội Quốc Phụ Thượng Tể cho Trần Quốc Chẩn, trả lại phẩm giá cho người đã khuất. Đây là bài học đau xót nhất trong 175 (1226 - 1400) thịnh trị của nhà Trần và cũng là bài học quý giá cho các thời đại sau về đào tạo, sử dụng người hiền tài. [25, Tr4]
Sự hành thành, phát triển và cấu trúc của đền.
Ghi nhận công lao của Trần Quốc Chẩn, triều đình đã giao cho bản xã sửa lại ngôi nhà cũ ở quê ông ở Kiệt Đặc, Chí Linh làm đền thờ. Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến đều sắc phong cho Trần Quốc Chẩn và cho phép địa phương theo trước phụng thờ, tôn vinh người có công với đất nước.
“Đài cao đứng sững nhòm xuống bờ sông,
Đó là đền thân vương nhà Trần gọi là Quốc Phụ”
Tương truyền đền thờ rất linh ứng, sách nhân vật lịch sử tỉnh Hải Dương còn ghi lại: “Năm Đinh Dậu (1357), Thượng Hoàng Minh Tông ốm nặng...Nguyên do, Thượng Hoàng bị bệnh từ hôm ngự giá đến miền Kiệt Đặc tại Chí Linh, viếng đền thờ Quốc phụ Huệ Vũ Đại Vương, khi ra khỏi đền bị con ong vàng đốt vào má. Từ đó sinh ra ốm lơ lửng mãi không khỏi. Trong tâm trí Minh Tông vẫn không xua nổi vụ án Quốc Chẩn bị hàm oan...
Có hôm nằm mơ nói to, ai cũng nghe thấy:
- Quốc Phụ thượng Tể! Ông về đón ta đấy ư?” [64,tr115]
“Minh Tông mệt nặng, Dụ Tông cho thái y sắc thuốc nhưng Thượng Hoàng không uống! Nửa đêm Thượng Hoàng kêu to:
- Quốc Phụ thượng tể đấy phải không? Ngươi đến đón ta ư?
Ngài Ngự lại thấy một con ong vàng bay quáng quàng trong quầng hoa cải hoa cà ở hai hố mắt.
Mùa xuân, ngày 19, tháng 2 năm Đinh Dậu (1357) thì ngài mất”. [64,tr117]
Đến nay nhân dân cầu đảo thường linh ứng.
Đền Quốc Phụ được trùng tu tôn tạo nhiều lần vào thời Lê Trung Hưng (Thế kỉ 17- 18) và thời Nguyễn (thế kỉ 19).
Di tích kiến trúc kiểu chữ Nhị, gồm 5 gian tiền tế và 3 gian Hậu cung xây bít dốc quai chảo. Đền xưa có 2 cây đa, một cây đề cổ thụ và con đường “cái quan” ghép đá hộc do nhà nước phong kiến đầu tư để tổ chức tể lễ Quốc Chẩn hàng năm thêm thuận lợi.
Di tích được xâydựng trên gò đất cao giữa cánh đồng lúa chạy dài theo hướng Bắc - Nam. Theo thuyết “phong thuỷ” đền Quốc Phụ có “Kim Xà” (Rắn Vàng), phía trước có đường ra bến đá ven sông Kinh Thầy. Bên trái là cánh đồng Lạng Trì và Ao vả, tục truyền đây là nơi tằm gội của Trần Quốc Chẩn. Bên phải là cánh đồng Giải Phướn, tại đây là di tích Đống Đỏ, có nhiều đống son tự nhiên. Phía sau là cánh đồng Đống Lăng, trong quá trình sản xuất nông nghiệp, tại đây nhân dân đã phát hiện được một số gạch cổ (KT 36 x 36 x 4cm), nhiều khả năng liên quan đến một kiến trúc cổ thời Trần.
Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 Đền Quốc Phụ thuộc xã Kiệt Đặc, Tổng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Ruộng công điền 48 mẫu, hoa lợi thu được giao cho thủ từ chi dùng vào lễ hội truyền thống và hương đăng hàng ngày.
Hàng năm theo điển lệ tại đền Quốc Phụ diễn ra hai sự kiện chính từ ngày 5 đến 8 tháng 3 (Lệ Đại Kỳ Phước) và ngày 12 tháng 6 âm lịch (ngày giỗ Quốc Chẩn). Lễ hội chính vào mùa xuân. Trong những ngày này nhân dân địa phương tổ chức rước kiệu từ các làng về đến đền Quốc Phụ tế lễ Quốc Chẩn hết sức trọng thể, thu hút hàng nghìn người tham gia tạo nên không khí lễ hội tưng bừng khắp một vùng rộng lớn.
Năm 1951, giặc Pháp từ bốt Trung Hà (Nam Hưng – Nam Sách) đã nã pháo vào khu đền chính hòng tiêu diệt cơ sở bí mật kháng chiến của ta làm nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, chỉ còn lại một phần Hậu cung và một số đồ thờ được nhân dân cất giấu từ năm trước. Năm 1953 di tích bị sụp đổ hoàn toàn.
Đến năm 1958, nhân dân địa phương tiếp tục vận động công sức xâydựng lại hậu cung trên nền móng cũ để ổn định việc sinh hoạt tín ngưỡng, tiếp tục tôn vinh người có công với đất nước.
Năm 1997 - 1998, thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ và nhân dân, được sự nhất trí của các cấp và các ngành chức năng, UBND xã đã tổ chức phát động công đức, huy động mọi nguồn lực tại địa phương khôi phục lại đền thờ Quốc Phụ xứng đáng với tài đức của Trần Quốc Chẩn, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân. Công trình đã được hoàn thành trong một thời gian ngắn không quá 60 ngày đêm. Kết quả là sự đồng tâm nhất trí, quyết tâm cao độ khắc phục mọi khó khăn của toàn thể Đảng bộ và nhân dân xã Chí Minh đã làm “hồi sinh” di tích “Thượng Tể cổ trạch” (nhà cũ của Thượng Tể) góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hoá dân tộc.
Căn cứ vào nội dung giá trị lịch sử của di tích và danh nhân, đền Quốc Phụ đã được Bộ Văn hoá - Thông tin ra quyết định số 15/2003/QĐ - BVHTT ngày 14/4/2003 xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia theo quy định của luật Di sản văn hoá. Đây là di tích 127 của tỉnh Hải Dương được xếp hạng bảo vệ. Trong một thời gian không xa, đền Quốc Phụ thuộc hệ thống “Chí Linh bát cổ” sẽ thực sự trở thành điểm du lịch, thăm quan học tập hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước trên đường hành hương về thăm vùng đất “Địa linh, nhân kiệt” thuộc Đông Bắc của tổ Quốc.
Share on facebook 0 người thích - Thích

Đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 15/2003/QĐ-...
ĐỀN QUỐC PHỤ


1. Tên di tích: Đền Quốc Phụ
2. Loại công trình: Đền
3. Loại di tích: Lịch sử
4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 15/2003/QĐ- BVHTT ngày 14 tháng 4 năm 2003
5. Địa chỉ: xã Chí Minh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương
6. Thông tin về di tích.
Năm bên tả ngạn sông Kinh Thầy, đền Quốc Phụ là một trong tám di tích thuộc “Chí Linh bát cổ” nổi tiếng được nhiều sử sách ghi nhận. Trước kia đền thuộc xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Nay di tích thuộc thôn Nẻo, xã Chí Minh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là đền thờ chính của Nhập nội Quốc phụ Thượng Tể Trần Quốc Chẩn - Một trong những danh tiếng kiệt xuất của nhà Trần, tài đức vẹn toàn hết lòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Gần 700 năm trôi qua, tên tuổi và sự nghiệp của Trần Quốc Chẩn luôn là niềm tự hào của đất và người Chí Linh nói riêng và Hải Dương nói chung.
Căn cứ vào các tài liệu chính sử và thư tịch cổ, Trần Quốc Chẩn nguyên là em vua Trần Anh Tông (1293 - 1314). Vào năm Hưng Long thứ nhất (1293) ông được phong Huệ Võ Đại Vương. Năm Hưng Long thứ 10 (1302) lại được phong nhập nội bình chương.
Đến năm Hưng Long thứ 20 (1312) biên giới phía Nam Đại Việt bị quân Chiêm Thành lấn chiếm. Nhận lệnh của triểu đình, Trần Quốc Chẩn đã cầm quân lên đường đánh dẹp, trận này ông phối hợp với tướng quân Đoàn Nhữ Hài bao vây, bức hàng quân Chiêm Thành thắng lợi, quân Trần không tốn một mũi tên nào. Đến năm Đại Khánh thứ 5 (1318), Trần Quốc Chẩn cùng tướng quân Phạm Ngũ Lão tiếp tục đi đánh dẹp quân Chiêm Thành, Trần Quốc Chẩn dẫn đầu đoàn quân tiên phong đi trước, Phạm Ngũ Lão bí mật tung quân đi đánh tập hậu phía sau. Bị đánh bất ngờ, quân Chiêm Thành vô cùng hoảng loạng, tháo chạy về nước, quân Trần thu được thắng lợi lớn, giữ yên bờ cõi quốc gia.
Do có nhiều công lao với triều đình, năm Khai Thái thứ nhất (1324), Trần Quốc Chẩn được vua Trần phong chức: Nhập nội Quốc phụ Thượng Tể – Chức quan đầu triều coi giữ Lục bộ Thượng Thư.
Sử cũ còn ghi nhận Trần Quốc Chẩn không chỉ là người có tài trong việc cầm quân xung trận mà ông còn là người nổi tiếng đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục. Ông là người trải thờ mấy triều, được Trần Anh Tông rất quý. Mỗi khi Minh Tông vào thăm Anh Tông, Thượng Hoàng thường hay đi cùng Trần Quốc Chẩn vì Anh Tông tin tưởng hơn cả, đem vua kí thác cho Quốc Chẩn dạy dỗ nên không cho Minh Tông vào thăm một mình, cốt để tình nghĩa vua tôi thêm phần khăng khít. Về sau Minh Tông lại lấy con gái của Quốc Chẩn nên càng tin dùng.
Vào những năm cuối đời, Trần Quốc Chẩn xin triều đình về quê sinh sống. Nhà ông ở ven sông lớn. Tục truyền ông có phép lạ: Những ngày chầu vua, buổi tối hôm trước ông còn ở nhà, vậy mà đến sáng sớm hôm sau đã có mặt ở Kinh Đô. Đó là bởi thời bấy giờ, đường thuỷ sông Thiên Đức (sông Thái Bình) đi lại thông suốt, ông dùng thuyền nhỏ sai người chở thật nhanh, chỉ một buổi chiều là đến nơi.
“Song vào năm Minh Tông giữ ngôi được 15 năm (tức đến năm 1392) tuổi đã cao mà cha lập được Thái Tử. Cha sinh ra Hoàng Hậu là Quốc Chẩn có ý chủ trương nên đợi Hoàng Hậu sinh con đích thì mới lập. Lợi dụng hoàn cảnh éo le đó, Cương Đông Văn Hiến Hầu (không rõ tên) là con của Tá thánh Trần Nhật Duật muốn đánh đổ Hoàng Hậu để lập Thái Tử Vượng (sau là Trần Hiến Tông) mới đem của đút cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu 100 lạng vàng bảo Phẫu vu cho cáo cho Quốc Chẩn có âm mưu làm phản. Vua cả tin cho là thật liền ra lệnh bắt giam ngay Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc ở kinh sư rồi đem việc ấy hỏi Thiếu Bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh với Văn Hiến, lại cùng với mẹ Vượng, đều là người Giáp Sơn (Kinh Môn) và đã từng làm thầy dạy Vương, liền trả lời: “Bắt hổ thì dễ, thả hồ thì khó”. Vua truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực. Hoàng Hậu Lê Thị muốn cho Trần Quốc Chẩn chết sớm để con mình được lập làm Thái Tử, liền cho người mang nước tẩm độc cho Quốc Chẩn uống, uống song thì chết”. [46,Tr174]
Vài năm sau gặp khi vợ cả và vợ lẽ của Trần Phẫu ghen nhau đem việc Văn Hiến Hầu đút vàng tâu lên vua. Việc giao xuống ngục quan xét, Lê Duy là người cương trực đem xét hỏi ngay ngày hôm ấy. Tên Phẫu bị tội “&;lăng trì”, Văn Hiến bị miễn tội chết, bị giáng xuống làm thứ dân, xoá tên trong sổ tôn thất của triều đình.
Đến năm Giáp Thân (1314), dưới thời Trần Dụ Tôn, một ông Vua nổi tiếng sáng suốt, vụ án Trần Quốc Chẩn được minh oan hoàn toàn. Triều đình phục chức: Nhập nội Quốc Phụ Thượng Tể cho Trần Quốc Chẩn, trả lại phẩm giá cho người đã khuất. Đây là bài học đau xót nhất trong 175 (1226 - 1400) thịnh trị của nhà Trần và cũng là bài học quý giá cho các thời đại sau về đào tạo, sử dụng người hiền tài. [25, Tr4]
Sự hành thành, phát triển và cấu trúc của đền.
Ghi nhận công lao của Trần Quốc Chẩn, triều đình đã giao cho bản xã sửa lại ngôi nhà cũ ở quê ông ở Kiệt Đặc, Chí Linh làm đền thờ. Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến đều sắc phong cho Trần Quốc Chẩn và cho phép địa phương theo trước phụng thờ, tôn vinh người có công với đất nước.
“Đài cao đứng sững nhòm xuống bờ sông,
Đó là đền thân vương nhà Trần gọi là Quốc Phụ”
Tương truyền đền thờ rất linh ứng, sách nhân vật lịch sử tỉnh Hải Dương còn ghi lại: “Năm Đinh Dậu (1357), Thượng Hoàng Minh Tông ốm nặng...Nguyên do, Thượng Hoàng bị bệnh từ hôm ngự giá đến miền Kiệt Đặc tại Chí Linh, viếng đền thờ Quốc phụ Huệ Vũ Đại Vương, khi ra khỏi đền bị con ong vàng đốt vào má. Từ đó sinh ra ốm lơ lửng mãi không khỏi. Trong tâm trí Minh Tông vẫn không xua nổi vụ án Quốc Chẩn bị hàm oan...
Có hôm nằm mơ nói to, ai cũng nghe thấy:
- Quốc Phụ thượng Tể! Ông về đón ta đấy ư?” [64,tr115]
“Minh Tông mệt nặng, Dụ Tông cho thái y sắc thuốc nhưng Thượng Hoàng không uống! Nửa đêm Thượng Hoàng kêu to:
- Quốc Phụ thượng tể đấy phải không? Ngươi đến đón ta ư?
Ngài Ngự lại thấy một con ong vàng bay quáng quàng trong quầng hoa cải hoa cà ở hai hố mắt.
Mùa xuân, ngày 19, tháng 2 năm Đinh Dậu (1357) thì ngài mất”. [64,tr117]
Đến nay nhân dân cầu đảo thường linh ứng.
Đền Quốc Phụ được trùng tu tôn tạo nhiều lần vào thời Lê Trung Hưng (Thế kỉ 17- 18) và thời Nguyễn (thế kỉ 19).
Di tích kiến trúc kiểu chữ Nhị, gồm 5 gian tiền tế và 3 gian Hậu cung xây bít dốc quai chảo. Đền xưa có 2 cây đa, một cây đề cổ thụ và con đường “cái quan” ghép đá hộc do nhà nước phong kiến đầu tư để tổ chức tể lễ Quốc Chẩn hàng năm thêm thuận lợi.
Di tích được xâydựng trên gò đất cao giữa cánh đồng lúa chạy dài theo hướng Bắc - Nam. Theo thuyết “phong thuỷ” đền Quốc Phụ có “Kim Xà” (Rắn Vàng), phía trước có đường ra bến đá ven sông Kinh Thầy. Bên trái là cánh đồng Lạng Trì và Ao vả, tục truyền đây là nơi tằm gội của Trần Quốc Chẩn. Bên phải là cánh đồng Giải Phướn, tại đây là di tích Đống Đỏ, có nhiều đống son tự nhiên. Phía sau là cánh đồng Đống Lăng, trong quá trình sản xuất nông nghiệp, tại đây nhân dân đã phát hiện được một số gạch cổ (KT 36 x 36 x 4cm), nhiều khả năng liên quan đến một kiến trúc cổ thời Trần.
Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 Đền Quốc Phụ thuộc xã Kiệt Đặc, Tổng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Ruộng công điền 48 mẫu, hoa lợi thu được giao cho thủ từ chi dùng vào lễ hội truyền thống và hương đăng hàng ngày.
Hàng năm theo điển lệ tại đền Quốc Phụ diễn ra hai sự kiện chính từ ngày 5 đến 8 tháng 3 (Lệ Đại Kỳ Phước) và ngày 12 tháng 6 âm lịch (ngày giỗ Quốc Chẩn). Lễ hội chính vào mùa xuân. Trong những ngày này nhân dân địa phương tổ chức rước kiệu từ các làng về đến đền Quốc Phụ tế lễ Quốc Chẩn hết sức trọng thể, thu hút hàng nghìn người tham gia tạo nên không khí lễ hội tưng bừng khắp một vùng rộng lớn.
Năm 1951, giặc Pháp từ bốt Trung Hà (Nam Hưng – Nam Sách) đã nã pháo vào khu đền chính hòng tiêu diệt cơ sở bí mật kháng chiến của ta làm nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, chỉ còn lại một phần Hậu cung và một số đồ thờ được nhân dân cất giấu từ năm trước. Năm 1953 di tích bị sụp đổ hoàn toàn.
Đến năm 1958, nhân dân địa phương tiếp tục vận động công sức xâydựng lại hậu cung trên nền móng cũ để ổn định việc sinh hoạt tín ngưỡng, tiếp tục tôn vinh người có công với đất nước.
Năm 1997 - 1998, thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ và nhân dân, được sự nhất trí của các cấp và các ngành chức năng, UBND xã đã tổ chức phát động công đức, huy động mọi nguồn lực tại địa phương khôi phục lại đền thờ Quốc Phụ xứng đáng với tài đức của Trần Quốc Chẩn, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân. Công trình đã được hoàn thành trong một thời gian ngắn không quá 60 ngày đêm. Kết quả là sự đồng tâm nhất trí, quyết tâm cao độ khắc phục mọi khó khăn của toàn thể Đảng bộ và nhân dân xã Chí Minh đã làm “hồi sinh” di tích “Thượng Tể cổ trạch” (nhà cũ của Thượng Tể) góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hoá dân tộc.
Căn cứ vào nội dung giá trị lịch sử của di tích và danh nhân, đền Quốc Phụ đã được Bộ Văn hoá - Thông tin ra quyết định số 15/2003/QĐ - BVHTT ngày 14/4/2003 xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia theo quy định của luật Di sản văn hoá. Đây là di tích 127 của tỉnh Hải Dương được xếp hạng bảo vệ. Trong một thời gian không xa, đền Quốc Phụ thuộc hệ thống “Chí Linh bát cổ” sẽ thực sự trở thành điểm du lịch, thăm quan học tập hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước trên đường hành hương về thăm vùng đất “Địa linh, nhân kiệt” thuộc Đông Bắc của tổ Quốc.
Share on facebook 0 người thích - Thích
0 Bình luận