
Lê Khả Phiêu (sinh 1931)
Lê Khả Phiêu (sinh 1931), nhà hoạt động quân sự, chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Quê xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Tốt nghiệp các lớp cao cấp quân sự, chính trị tại Học viện Quân sự cao cấp và Học viện Chính trị - Quân sự. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (1949), gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam (1950); làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Cămpuchia; tham gia Chiến dịch Hoà Bình 1951, Tổng tiến công Mậu Thân 1968, Chiến dịch đường 9- Nam Lào 1971 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.
Từ 1964 đến 1993, đã qua các chức vụ: chính uỷ kiêm trung đoàn trưởng, phó chủ nhiệm chính trị Quân khu IX; thiếu tướng (4.1984), chủ nhiệm chính trị, phó tư lệnh chính trị Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; trung tướng (6.1988); phó chủ nhiệm, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (9.1991), thượng tướng (7.1992); uỷ viên Thường vụ Đảng uỷ quân sự Trung ương. Uỷ viên Trung ương Đảng khoá VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng (6.1992), uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1.1994). Uỷ viên thường vụ, thường trực Bộ Chính trị (6.1996). Tại Hội nghị IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (12.1997), được bầu làm tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Đại biểu Quốc hội khoá IX, X.
Tác phẩm chính: "Đảng lãnh đạo quân đội là nguyên tắc cơ bản, nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta" (1995), "Quốc phòng, an ninh trong công cuộc đổi mới đất nước" (1997), "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (2000), "Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân ta tiến vào thế kỉ 21" (2000).
Được nhà nước tặng 4 huân chương Quân công, 7 huân chương Chiến công, 2 huân chương Kháng chiến và nhiều huân huy chương khác. Được Nhà nước Lào, Campuchia, Cuba tặng các huân chương cao quý.
Lê Khả Phiêu (sinh năm 1931) là một cựu chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001. Ông cũng đồng thời là một tướng lĩnh, từng giữ chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng.
Xuất thân và binh nghiệp
Ông sinh ngày 27 tháng 12 năm 1931 ở làng Thượng Phúc, xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam. Năm 1945, ông tham gia phong trào Việt Minh tại địa phương và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 19 tháng 6 năm 1949.
Ngày 1 tháng 5 năm 1950, ông được tổ chức Việt Minh điều động gia nhập quân đội. Ông bắt đầu trưởng thành từ một binh nhì thăng tiến dần đến chức vụ Chính trị viên Đại đội thuộc Trung đoàn 66 Đại đoàn 304. Từ tháng 9 năm 1954 đến năm 1958, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó chính trị viên, Chính trị viên tiểu đoàn rồi Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 66.
Từ tháng 6 năm 1961 đến năm 1966, ông lần lượt giữ chức vụ Phó trưởng ban, Trưởng ban Cán bộ tổ chức Sư đoàn 304, sau đó là Phó chính ủy, rồi Chính ủy kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9, Sư đoàn 304.
Năm 1967, ông được điều động cùng Trung đoàn 9 vào chiến trường Trị Thiên, làm Chính ủy Trung đoàn. Năm 1968, ông làm Trưởng phòng Tổ chức Quân khu Trị Thiên. Đến năm 1970, là Phó chủ nhiệm Chính trị Quân khu Trị Thiên.
Tháng 5 năm 1974, khi Quân đoàn 2 được thành lập, ông được cử giữ chức Chủ nhiệm Cục chính trị Quân đoàn, hàm Thượng tá.
Năm 1978, ông là Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị, rồi Phó tư lệnh về chính trị Quân khu 9, hàm Đại tá. Đồng thời ông cũng kiêm nhiệm một chức vụ dân sự là Phó Bí thư Khu ủy Khu IX.
Tháng 4 năm 1984, ông được thăng hàm Thiếu tướng, giữ chức vụ Chủ nhiệm chính trị, rồi Phó tư lệnh về chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị, Phó Bí thư Ban Cán sự Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (mật danh Mặt trận 719).
Tháng 8 năm 1988, sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, ông được thăng hàm Trung tướng và được điều về làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Tháng 9 năm 1991, là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Năm 1992, ông được phong quân hàm Thượng tướng.
Sự nghiệp chính trị
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu tiếp Tổng thống Vladimir Putin tại Hà Nội, 2001
Tháng 6 năm 1991 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, ông được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Về phía quân đội, ông giữ chức Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Tháng 6 năm 1992 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 13 của Đảng, ông được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Tháng 1 năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, bầu vào Bộ Chính trị. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VIII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6 năm 1996), ông được bầu làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Thường trực Bộ Chính trị.
Ngày 26 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) ông được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ông cũng là đại biểu Quốc hội khoá IX, X.
Trong nhiệm kỳ 4 năm của mình (1997-2001), Lê Khả Phiêu đã thể hiện sự kiên quyết trong công tác chống tham nhũng làm trong sạch vững mạnh Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vinh danh
Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng:
Huân chương Sao Vàng
4 Huân chương Quân công
7 Huân chương Chiến công
2 Huân chương Kháng chiến
và nhiều huân huy chương khác.