Số người đang online : 24 ĐÌNH NHẬT TÂN - Danh thắng - danh nhân, văn hóa - ẩm thực Việt Nam

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

ĐÌNH NHẬT TÂN
post image
ĐÌNH NHẬT TÂN

Được công nhận di tích theo quyết định số: 24/2001/QĐ- BVHTT ngày 20...

ĐÌNH NHẬT TÂN



1.    Tên di tích: Đinh Nhật Tân
2.    Loại công trình:  Đình thờ
3.    Loại di tích: Di tích lịch sử cấp quốc gia
4.    Quyết định: Được công nhận di tích theo quyết định số: 24/2001/QĐ- BVHTT ngày 20 tháng 4 năm 2001
5.    Địa chỉ di tích: Xã Nhật Tân- Huyện Kim Bảng- Tỉnh Hà Nam
6.    Tóm lược thông tin về di tích   
       Đình Nhật Tân thuộc Xã Nhật Tân, nằm ở vị trí xóm 8 của xã. Đình Nhật Tân- xã Nhật Tân- Kim Bảng- Hà Nam thờ Bản Cảnh Thành Hoàng Trung Thành Phổ Tế Đại vương Trường Lệnh là vị tướng giỏi thời Hùng Duệ Vương. Theo truyền thuyết của địa phương, căn cứ vào thần phả, sắc phong cùng các câu đối, đại tự còn lưu giữ ở đình, có thể tóm tắt tiểu sử của vị thần như sau: Thời Hùng Duệ Vương thứ 18 ở xã Bạch Hạc, thành Phong Châu, phủ Tam Đới,đạo Tây Sơn có ông Nguyễn Hinh lấy vợ tên là Mai Thị Duyệt, người ở xã Đa Chất huyện Phù Vân, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam. Vợ chồng ăn ở lương thiện, tu nhân tích đức. Năm ông Hinh tuổi ngoài 60, bà Duyệt cũng đã ngoài 50, đường con cái vẫn muộn mằn. Vì thế ông bà buồn rầu vì cảnh già cô đơn, thường than thân trách phận, nghĩ cảnh về già trăm tuổi không biết trông cậy vào ai. Vào một đêm mùa thu trăng trong gió mát, ông bà cùng nhau uống rượu mong giải được nỗi sầu. Rượu say, bà Duyệt ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Trong cơn mơ màng, bà thấy một ông lão đầu râu tóc bạc từ đâu đi đến, đem đến cho bà hai người con trai nói rằng: “Đây là của quý trời ban cho nhà bà, vốn lòng tu nhân tích đức để làm con. Sau này con người sẽ làm hiển vinh của nhà, rạng danh đất nước, để lại tiếng thơm lưu truyền muôn thủa”. Nói xong ông già biến mất. Từ đó bà Duyệt mang thai tới 10 tháng. Ngày 20/05 năm Bính Dần bà sinh ra một bọc trong đó có hai người con trai. Vui mừng khôn xiết, ông bà liền đặt tên cho con: người anh là Trường Lệnh, người em là Thạch Khanh. Hai anh em lúc mới sinh mặt mũi phương phi khôi ngô tuấn tú, dáng vẻ khác người thường. Đến tuổi cha mẹ cho theo thầy học văn chương, quán triệt võ nghệ tinh thông, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, điều gì cũng biết. Bạn bè kính phục tôn là thần đồng xuất thế.
     Năm 14 tuổi cha mẹ nối nhau qua đời. Hai ông lo tròn đạo hiếu tìm nơi đất tốt làm lễ an táng cha mẹ. Chịu tang 3 năm, từ đó cảnh nhà lâm vào túng thiếu. Anh em bữa rau bữa cháo qua ngày. Năm 19 tuổi gặp khi vua Duệ Vương  dựng lều kén rể cho con gái là Mị Nương, hai ông cùng về kinh thành đọ sức thi tài với các anh hùng hào kiệt bốn phương. Thời đó Tản Viên Sơn Thánh là người có tài thông trời suốt đất, có diệu thuật lấp biển rời non, hô gió gọi mưa. Vì thế vua cho là bậc tài giỏi nhất trong thiên hạ, nhận lời gả công chúa cho làm vợ. Vua rất khâm phục trí và tài cao của hai ông sau cuộc thi. Nên phong Trường Lệnh là hữu đô đài, Thạch Khanh là tả đô đài. Vài năm sau thời cơ vua Hùng Duệ Vương tuổi cao, sức yếu lại không có con trai kế nghiệp, Thục Phán bèn huy động quân sỹ, lương thảo chia làm 5 đạo quân tiến đánh thành Phong Châu, vua phong Tản Viên Sơn Thánh làm Đại Tướng quân, nguyên soái thống lĩnh thuỷ bộ cùng các tướng lĩnh chia đường đón đánh. Ông Trường Lệnh cùng Thạch Khanh biểu xin vua cho được đem quân sỹ đánh dẹp quân Thục ở hai châu lớn: Bố Chính, Minh Lĩnh. Vua chuẩn y. Hai ông vâng mệnh lĩnh binh tiến đến đồn doanh quân Thục đánh một trận lớn. Quân Thục thua to, thuyền không còn một chiếc, ngựa không sót một con. Các loại khác của quân Thục cũng bị Tản Viên Sơn Thánh và các tướng quân đánh cho tan tác. Quân Thục rút chạy. Sau ngày chiến thắng, vua xét thưởng công cho tướng sỹ, phong tước cho hai ông, cho phép xây dựng sinh từ ở quê nội Bạch Hạc. Nghĩ về quê ngoại, ông Trường lệnh xin vua xây dựng sinh từ ở xã Đa Chất. Vua đồng ý. Từ đó nội ngoại hai quê Bạch Hạc- Đa Chất được miễn mọi khoản binh lương tạp dịch. Mấy năm sau giặc Tôn Tinh vào xâm lấn. Vua sai ông Trường Lệnh đem quân đi đánh dẹp. Sau chiến thắng trở về vua phong cho ông là Trung thành đại vương và cho phép ông đi khắp trong thiên hạ tìm nơi lập sinh từ, cả thảy có 72 nơi. Một ngày ông trở về làng Đa Chất tu bổ sinh từ. Công việc hoàn thành ông liền mở tiệc lớn ăn mừng. Đang lúc ăn uống vui vẻ thì ông bỗng nhiên qua đời( hôm đó là ngày 15/8)
     Nhân dân Đa Chất vô cùng thương tiếc làm lễ an táng ngay tại nơi sinh từ theo lời dặn trước của ông. Công việc xong xuôi, nhân dân làm biểu tấu về triều đình. Được tin vua thương xót vị trung thần tài giỏi có nhiều công lao lớn giúp nước, an dân, ban chiếu phong tặng ông là “Thượng đẳng phúc thần”
     Thời Bắc thuộc Thái Thú giao Châu là Lý Thường Minh một đêm ngủ ở thành Phong Châu mộng thấy hai người oai phong lẫm liệt đi đến trước mặt. Một người tự xưng là Trường Lệnh, một người tự xưng là Thạch Khanh. Lý Thường Minh muốn thử tài hơn kém. Ông Thạch Khanh quát to một tiếng sải một bước dài qua ngã ba sông sang bờ bên kia thì đã thấy ông Trường Lệnh ngồi đợi ở đó từ lâu. Thường Minh giật mình tỉnh mộng biết là những vị anh linh bèn cho đúc tượng thần thờ ở  Bạch Hạc , tôn ông Trường Lệnh là Trung Thành phổ tế đại vương.
     Thời vua Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, ở xã Lưu Xá, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam có một người tên là Lưu Quyền theo vua đi đánh sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động. Khi đi qua đền thờ Trung Thành phổ tế đại vương ở xã Đa Chất, vua vào đền thờ làm lễ cầu đảo xin được âm phù. Nhân đó, Lưu Quyền thành tâm cầu xin thần anh linh, phù trợ và hứa sau này chiến thắng quay trở về đền xin tro hương về làng xây đền phụng thờ. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, luận công phong thưởng. Lưu Quyền công lao to lớn được vua phong chức là Thuỷ tào phán sự. Ban phong mỹ tự Trung thành phổ tế đại vương “Đại linh cảm chiếu ứng”. Sắc chỉ cho phép 72 nơi phụng thờ. Thuỷ tào phán sự Lưu Quyền biểu tấu xin vua cấp thêm một đạo sắc nữa về xã Lưu Xá cùng nhân dân xây đền thờ trên khu đất hình chim phượng. Cửa đền nhìn về phía Tây Nam, đôi câu đối nhấn vữa ở mặt bên cột đồng trụ còn ghi:
                                Hưởng thần hữu sở đinh triều khải tự chí kim
                                Tụ tộc vi hương lạc tuần hợp quy tự tích

     Nghĩa là: Hưởng phúc ở sinh từ của thần, đền thờ được lập nên từ triều đình vua Đinh đến nay.
     Đình Nhật Tân được xây dựng trên một khu đất rộng và thoáng mát. Trước Đình là một hồ nước hình chữ nhật có diện tích khoảng 3 mẫu ta. Công trình kiến trúc nghệ thuật Đình thôn Nhật Tân- xã Nhật Tân  bề thế, đồ sộ. Trải qua hàng trăm năm, nhân dân địa phương đã giữ gìn bảo quản ngôi đình tương đối nguyên vẹn. Dựa vào các tư liệu thành văn: thần phả, sắc phong, đại tự, câu đối... đồ thờ tự, kiến trúc nghệ thuật có thể xác định đình Nhật Tân được xây dựng vào thời Hậu Lê ( Thời Lê Trung Hưng – 1459) và lần trùng tu gần nhất vào năm thứ 5 niên hiệu Tự Đức( 1852). Hiện nay đình vẫn còn giữ được tương đối nguyên vẹn kiến trúc cổ. đặc biệt là số lượng đồ thờ tự, cổ thư hết sức phong phú đa dạng bao gồm nhiều thể loại, chất liệu khác nhau vừa quý hiếm vừa có giá trị lịch sử- văn hoá cao tiêu biểu của thời Hậu Lê và thời Nguyễn.
    










0 Bình luận

Gửi bình luận:

Click here to cancel reply
Họ và tên
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Thư điện tử
Tỉnh thành