Trần Văn Kỳ (1915 - 12/1968)
(1915 - 12/1968) Đồng chí Hoàng Sâm, tên thật là Trần Văn Kỳ, sinh năm 1915, xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Lê Lợi, huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Năm 1927, khi đồng chí Sâm mới 12 tuổi đã rời làng quê sang Xiêm (Thái Lan sinh sống). Năm 1928-1929, khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc với bí danh là Thầu Chín sang hoạt động cách mạng ở Xiêm, Trần Văn Kỳ được chọn làm liên lạc trong suốt thời gian Người hoạt động ở Xiêm. Năm 1933, Trần Văn Kỳ được kết nạp vào Đoàn thanh niên cộng sản, sau đó được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Năm 1934, đồng chí Kỳ bị mật thám Thái Lan bắt và giao cho lãnh sự Pháp ở Băng Cốc tra tấn, hỏi cung. Sau gần một năm giam giữ vì không có chứng cớ cụ thể, chúng phải thả và trục xuất ngay sau đó. Rời Thái Lan, ông sang Quảng Tây, Trung Quốc, gặp Phùng Chí Kiên, tham gia “Điền kiểm quế biên khu du kích đội”- một tổ chức kháng Nhật của Đảng cộng sản Trung Quốc hoạt động ở 3 tỉnh biên giới Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. Giữa năm 1940, ông học quân sự ở Trường Trương Bội Công, được gặp Thầu Chín (Nguyễn Ái Quốc) và được Người đặt cho bí danh là Hoàng Sâm. Sau đó ông cùng 40 cán bộ ở Cao Bằng từ bỏ Trường Trương Bội Công trở về nước hoạt động. Cuối năm 1940, Hoàng Sâm được dự lớp huấn luyện cán bộ về công tác tổ chức các đoàn thể quần chúng nhằm chuẩn bị thành lập mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi, lớp học này do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Vũ Anh trực tiếp giảng dạy.
Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc về Pác Bó – Cao Bằng. Tháng 5/1941, Người triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Khuổi Nặm. Hoàng Sâm được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ tổ chức đường dây qua Lạng Sơn để đón đại biểu về dự hội nghị quan trọng này. Cuối năm 1941, Hoàng Sâm làm đội phó đội vũ trang Cao Bằng. Thời gian này, ở biên giới Việt – Trung, nạn thổ phỉ hoành hành dữ dội, Trần Sơn Hùng (bí danh của Hoàng Sâm) được chúng kiêng nể bởi sự gan dạ, dũng cảm và tài ba, có biệt tài phi ngựa không cần yên cương, bắn súng ngắn cả hai tay, bọn trùm phỉ khét tiếng như Voòng A Sáng, Voòng An Sính, Lý Xìu… nghe danh “ông Trần” đều phải kiêng nể. Hoàng Sâm không quản nguy hiểm vào tận sào huyệt của chúng thi bắn súng, cưỡi ngựa, ném lừu đạn. Những hoạt động khôn khéo, dũng cảm của Hoàng Sâm cùng với uy tín cá nhân của ông đã hạn chế sự phá phách, lộng hành của các toán phỉ, tạo điều kiện cho các hội cứu quốc ở vùng Lục Khu (Hà Quảng) phát triển. Tháng 7/1943, Hoàng Sâm được giao nhiệm vụ tổ chức, bảo vệ các tổ xung phong Nam Tiến. Chỉ huy đội vũ trang “Hộ lương, diệt ác” trừng trị bọn việt gian phản động và các nhóm quân Pháp đang gây tội ác ở Nguyên Bình, Ngân Sơn, Chợ rã. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, Hoàng Sâm được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn làm Đội trưởng, trực tiếp chỉ huy các trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu và Nà Ngần lần thứ hai. Sau ngày Nhật đảo chính (9/3/1945), Hoàng Sâm chỉ huy giải phóng các châu Ngân Sơn, Chợ rã, phía bắc Bạch Thông, giải tán bộ máy tổng lý, cường hào. Cuối tháng 3/1945, Hoàng Sâm cùng với Đàm Quang Trung chỉ huy các đơn vị đánh Nhật ở Phủ Thông, thành lập chính quyền cách mạng cấp xã ở đây. Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, ông chỉ huy đánh Nhật ở Bắc Kạn, Thái Nguyên bảo vệ khu giải phóng Cao, Bắc, Lạng, Thái, Hà, Tuyên. Sau trận đánh Thái Nguyên ông đưa đơn vị về Vĩnh Yên tiêu diệt lực lượng Quốc dân Đảng phản động Đỗ Đình Đạo…
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông làm Chỉ huy trưởng mặt trận Tây Tiến, khu trưởng chiến khu II, chiến khu III. Có nhiều câu chuyện như thần thoại về tài năng quân sự của Hoàng Sâm được bộ đội Tây Tiến và bà con các dân tộc Tây Bắc khâm phục truyền tụng. Năm 1948, Hoàng Sâm được phong quân hàm thiếu tướng, sau là đại biểu quốc hội các khoá II và III. Năm 1951-1953, ông là phái viên của Bộ tham gia chiến dịch với các đại đoàn 312, 304. Sau làm Đại đoàn trưởng 304, Chỉ huy trưởng mặt trận Trung – Lào. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông tiếp quản Hải Phòng. Cuối năm 1955, ông làm Tư lệnh quân khu Tả Ngạn, sau đó làm Tư lệnh quân khu Hữu Ngạn, Tư lệnh quân khu III.
Năm 1962, Hoàng Sâm làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào với bí danh Chăn Di… được các đồng chí lãnh đạo nước Lào hết sức tin cậy và kính trọng. Về nước ông được cử làm Tư lệnh quân khu Trị Thiên Huế.
Tháng 12/1968, Thiếu tướng Hoàng Sâm đã hy sinh anh dũng tại chiến trường Bình Trị Thiên. Ông ra đi ở tuổi 53, Hoàng Sâm là tướng tài ba, người học trò được Bác Hồ tin cậy và quý trọng.
Hoàng Sâm (1915–1968) là Thiếu tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, và là đội trưởng đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân.
Ông tên thật là Trần Văn Kỳ, sinh năm 1915 ở làng Lệ Sơn, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Tiểu sử
Năm 12 tuổi, ông đã được chọn sang Thái Lan học tập, được kết nạp vào Đội Thiếu niên tiền phong. Thời kỳ ở Thái Lan, ông được Hồ Chí Minh chọn làm người liên lạc với bí danh Thầu Chín.
Năm 1933 Hoàng Sâm gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Sau đó, ông sang Trung Quốc rồi trở về Cao Bằng, tham gia Tỉnh ủy Cao Bằng.
Năm 1938, ông tham gia đội du kích kháng Nhật của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hoạt động dọc biên giới Việt-Trung.
Cuối năm 1940, Hoàng Sâm được cử đi dự lớp huấn luyện cán bộ do Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh mở ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Lúc này, ông là Tỉnh ủy viên tỉnh Cao-Bắc-Lạng (Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn).
Tháng 11 năm 1941, khi tiểu đội du kích thoát ly đầu tiên của Cao Bằng gồm 12 người được thành lập, ông được cử làm Tiểu đội phó.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, Hoàng Sâm được chọn làm đội trưởng (lúc đó ông Xích Thắng (tức Dương Mạc Thạch) làm chính trị viên). Ông đã chỉ huy đội đánh các đồn Phai Khắt, Nà Ngần. Sau những chiến thắng đầu tiên này, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân phát triển thành một đại đội gồm ba trung đội và Hoàng Sâm được cử làm đại đội trưởng. Thời gian sau, đội phát triển thành chi đội (tức tiểu đoàn), Hoàng Sâm trở thành Chi đội trưởng Giải phóng quân.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông được cử làm Khu trưởng Liên khu 2 (kế nhiệm ông Văn Tiến Dũng), Khu trưởng Liên khu 3 (1946-1950). Ngày 1 tháng 1 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 111/SL phong quân hàm Thiếu tướng cho ông (cùng đợt phong với 8 Thiếu tướng khác).
Năm 1953, ông làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn (sư đoàn) 304. Ông từng làm chỉ huy trưởng Mặt trận Trung Lào, tham gia giải phóng thị xã Thà Khẹt. Sau đó ông được cử làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 320.
Năm 1955 ông tham gia tiếp quản Hải phòng, được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Quân chính[1]. .
Trong kháng chiến chống Mỹ, ông làm Tư lệnh Quân khu 3, Tư lệnh Quân khu Hữu ngạn, Tư lệnh Quân khu Trị-Thiên
Ông hy sinh ngày 15 tháng 12 năm 1968 tại chiến trường Trị-Thiên ở tuổi 53.
Ông đã có 41 năm liên tục công tác và chiến đấu trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ông được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1999. Tên của ông được UBND TP Hà nội đặt cho một con đường ở quận Cầu Giấy.