Số người đang online : 39 Mạc Mậu Hợp (1562-1592) - Danh thắng - danh nhân, văn hóa - ẩm thực Việt Nam

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

Mạc Mậu Hợp (1562-1592)
post image
Mạc Mậu Hợp (1562-1592)

Mạc Mậu Hợp là con cả của Mạc Phúc Nguyên, năm 1562 lên ngôi vua hãy còn bé, ứng vương Mạc Đăng Nhượng (con út Mạc Đăng Dung) làm Nhập nội phụ chính ẵm Mạc Mậu Hợp ra coi chầu, tôn ông chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm Khiêm đại vương cùng trông coi việc triều chính.

Ngày 21 tháng 2 năm Mậu Dần - 1578, Mạc Mậu Hợp bị sét đánh ở trong cung, liệt nửa người, sau chữa thuốc lại khỏi, bèn đổi niên hiệu là Diên Khánh.

Tháng 10 năm Canh Thìn - 1580, Phụ chính Mạc Kính Điển, trụ cột của triều Mạc chết, ứng vương Mạc Đăng Nhượng giữ quyền phụ chính quyết định mọi việc nhưng lại thường về sống ở Dương Kinh vì vậy việc triều chính bê bối không ai quyết đoán.

Năm 1581, Mạc Mậu Hợp bị chứng thong manh, chữa mãi mới khỏi. Khỏi bệnh, Mạc Mậu Hợp lao vào ăn chơi truỵ lạc. Chính sự nhà Mạc ngày càng đổ nát, binh lực suy yếu, lòng người ly tán.

Ngày 25 tháng 11 năm 1592, thủy quân Lê - Trịnh gồm 300 chiến thuyền đánh vào các huyện Kim Thành, Thanh Hà, Nam Sách, Kinh Môn (tỉnh Hải Dương ngày nay). Quân Mạc tan vỡ, dư Đảng nhà Mạc xin hàng Trịnh Tùng rất đông. Mạc Mậu Hợp chạy trốn, bị bắt giải về kinh đô Đông Đô, bị treo sống 3 ngày rồi bị chém đầu ở bãi cát Bồ Đề. Mạc Mậu Hợp ở ngôi vua được 30 năm, khi chết 31 tuổi.

Con trai Mạc Mậu Hợp là Mạc Toàn chạy trốn, sau bị quân Trịnh bắt được đem chém đầu tại bến Thảo Tân.

Mạc Mậu Hợp (1560 – 1592) là vị vua thứ năm của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Nguyên quán Mạc Mậu Hợp là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Việt Nam)


Tiểu sử

Mạc Mậu Hợp sinh năm 1560 là con trưởng của Hoàng đế Mạc Tuyên Tông[1].

Do Mạc Tuyên Tông bị bệnh đậu mùa mất sớm, Mạc Mậu Hợp mới lên 2 tuổi đã được Khiêm vương Mạc Kính Điển là phụ chính đưa lên ngôi tháng 1 năm 1562. Lúc này triều chính vẫn do hai ông chú là Mạc Kính Điển và Mạc Đôn Nhượng phụ tá. Mậu Hợp lên ngôi lấy niên hiệu là Thuần Phúc thứ nhất.
Nhờ tay phụ chính của Khiêm vương

Lợi dụng Mạc Phúc Nguyên mất, con nối ngôi còn thơ dại, Mạc Kính Điển một đại thần trụ cột của triều Mạc đã cao tuổi, phía Lê–Trịnh lại liên tiếp mở những cuộc tấn công vào các vùng Trường Yên, Yên Sơn Nam. Kính Điển lại phải thân chinh đốc binh mã chống Lê – Trịnh. Kính Điển tổ chức những trận đánh thọc sâu vào Thanh Hoa buộc thái sư phụ chính của Nam triều là Trịnh Kiểm phải lui quân về giữ Tây Đô (Thanh Hoá).

Tháng 9 năm 1566, Trịnh Kiểm lại xuất quân đánh vào vùng Tây Nam. Tháng 7 năm 1567 đánh vào vùng Sơn Nam cướp thóc lúa bị Kính Điển đánh mạnh lại phải lui quân về Thanh Hoa.

Tháng 10 năm 1567, Trịnh Kiểm ốm nặng, phải trao quyền cho con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng nối giữ chức Thái Quốc công giúp Lê Anh Tông và giao Nguyễn Hoàng trấn thủ cả Thuận Hóa và Quảng Nam.

Tháng 2 năm 1570, Trịnh Kiểm chết, anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền. Thấy triều Lê Anh Tông lục đục, quan Bố Chính là Lập quận công Mạc Lập Bạo đem quân về đầu hàng Mạc Mậu Hợp. Mạc Kính Điển nhân thế đem quân đánh thẳng vào Thanh Hoa, cuộc tấn công Lê - Trịnh lúc này của nhà Mạc kéo dài suốt năm 1570 nhưng vẫn chưa phân thắng bại. Trịnh Tùng cầm quân Nam triều cầm cự được với quân Mạc. Trước thế tấn công quyết liệt của Mạc Kính Điển, Thái Quốc công Trịnh Cối bị kẹp giữa quân Mạc và quân Trịnh Tùng, nên cùng nhiều tướng lĩnh khác của triều Lê Anh Tông chạy về với nhà Mạc. Cuối năm 1570 Kính Điển lại rút quân về Đông Kinh. Lúc này Lê Anh Tông phải trao quyền binh cho Trịnh Tùng và đưa Tùng lên chức Thái Úy Trưởng Quốc công vào năm 1571.

Từ năm 1571-1580 Mạc Kính Điển liên tiếp xuất quân đánh Lê Anh Tông, quân nhà Mạc tiến sâu vào Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam nhưng sau cùng không đánh chiếm được.

Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển lâm bệnh mất sau 34 năm phụ chính (1547-1580) cho các ấu chúa nhà Mạc.
Bỏ bễ chính sự

Khi Mạc Kính Điển mất, Mạc Mậu Hợp đã trưởng thành. Ông trao quyền Trung doanh Tổng súy ứng vương cho một ông chú khác là Mạc Đôn Nhượng (em út của Mạc Kính Điển). Song Mạc Đôn Nhượng vốn là người nhu nhược, thiếu tính quyết đoán nên từ ngày được bổ nhiệm (1580) đến 1583 không xuất quân đánh dẹp, trễ nải việc quân, việc triều chính cũng không quán xuyến được như thời Mạc Kính Điển.

Trong khi đó thì Mạc Mậu Hợp lại sống xa hoa, kiêu ngạo, hay nghe xiểm nịnh, thường ít lắng nghe lời bàn luận, khuyên can của các bậc lương thần. Vì thế nhiều trọng thần kể cả văn và võ muốn cáo quan về hưu, Mạc Mậu Hợp phải buộc họ mới chịu ở lại. Quan Thái bảo Giáp Trưng từng khuyên Mạc Mậu Hợp “Trí túc bất nhục” (Biết đủ thì không nhục), song Mạc Mậu Hợp không nghe theo nên Giáp Trưng xin về. Mậu Hợp cố giữ lại, Giáp Trưng tâu:

    “Tiên Hoàng thường xử: Niên túi tiện quy”.

Mạc Mậu Hợp không thể lưu được.

Đông Các học sỹ Nguyễn Văn Nhuận cũng có lần đã mạnh bạo tâu với Mậu Hợp:

    “Nếu mọi việc, việc gì cũng không cốt ở sự thực mà chỉ chuộng hư văn, hạ thần sợ rằng việc trong thiên hạ sẽ dồn tới số không hết thảy”.

Dù được các đại thần có những lời bàn chí lý nhưng Mạc Mậu Hợp không để tâm. Vì thế việc triều chính của nhà Mạc ngày càng suy sút.
Làm mất Bắc triều

Trong một thời gian khá dài từ cuộc tranh chấp giữa anh em họ Trịnh, quân Nam không đủ khả năng tấn công ra bắc. Tuy nhiên sau khi Mạc Kính Điển mất, quân Nam triều bắt đầu phản công trở lại và dần dần chiếm ưu thế trên chiến trường. Mạc Mậu Hợp không chú trọng tới chính sự càng khiến tinh thần quân bắc kém đi.
Kinh thành khói lửa

Cuối năm 1591, Trịnh Tùng khởi đại quân đánh ra bắc. Mạc Mậu Hợp huy động toàn quân Bắc triều hơn 10 vạn người, sai Mạc Ngọc Liễn giữ Tây đạo, Nguyễn Quyện giữ Nam đạo, tự nhà vua cũng tham gia đi trung quân.

Ngày 27 tháng 12 năm 1591, quân Mạc đi đến Phấn Thượng gặp quân Lê-Trịnh, cùng dàn trận. Mạc Ngọc Liễn bên phải, Nguyễn Quyện bên trái. Hai bên đánh nhau to suốt từ hôm đó sang tận đầu năm sau, tới ngày 3 tháng giêng năm 1592, quân Mạc thua trận. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy sang Bồ Đề, để Mạc Ngọc Liễn và các tướng ở lại chống giữ. Ngọc Liễn lĩnh quân bản bộ giữ từ cửa Bảo Khánh tới cửa Nhật Chiêu, Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê giữ từ Cầu Da tới Cầu Dền; Nguyễn Quyện giữ từ Mạc Xá sang phía đông kinh thành.

Ngày 6 tháng giêng, hai bên hỗn chiến một trận ác liệt nữa. Trịnh Tùng tiến đến gò tập bắn (Giảng Võ, Hà Nội) bày trận, chia đường cho các tướng tiến đánh. Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê thua trận bỏ chạy, Nguyễn Quyện đặt phục binh không kịp trỗi dậy nên bị bắt; Mạc Ngọc Liễn cô thế phải bỏ luỹ rút lui. Thăng Long thất thủ.

Tháng 3 năm 1592, Trịnh Tùng san phẳng thành luỹ Thăng Long nhưng rồi lại phải rút về Thanh Hoá vì biết chưa đủ sức chiếm giữ kinh thành.
Ham sắc hại mình

Mạc Mậu Hợp thấy quân Nam rút, cho rằng quân Nam yếu. Khi trở về kinh thành, ông lại hưởng lạc như cũ, không lo lắng việc phòng chống quân Nam và tổ chức phản công.

Nguyên lão tướng Nguyễn Quyện sinh được hai con gái. Con gái lớn là hoàng hậu Nguyễn Thị của Mạc Mậu Hợp, con gái thứ Nguyễn Thị Niên là vợ tướng Bùi Văn Khuê. Tháng 8 năm 1592, Nguyễn Thị Niên vào cung thăm chị, Mạc Mậu Hợp thấy sắc đẹp của thị Niên nên muốn chiếm đoạt, bèn triệu vào phòng để giữ lại trong cung tới sáng rồi giữ luôn, dự định triệu Bùi Văn Khuê về kinh để giết. Nguyễn Thị Niên sợ hãi bèn sai người hầu cận mật chạy đi báo cho Bùi Văn Khuê.

Bùi Văn Khuê biết chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về giữ hạt Gia Viễn, không theo mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mấy lần vời cũng không tới, bèn sai tướng dẫn quân tới hỏi tội Văn Khuê.

Tháng 10 năm 1592, Bùi Văn Khuê trưng binh chống giữ, và sai con trai chạy tới hành doanh, yết kiến phủ Trịnh Tùng, khóc lóc cáo tố sự tình, xin đầu hàng và xin cho quân cứu viện. Thế là Bùi Văn Khuê cùng cánh quân thuỷ, vốn là sở trường của quân Mạc, về hàng Nam triều. Trịnh Tùng bèn sai Hoàng Đình Ái dẫn một đạo quân đi trước, để cứu Bùi Văn Khuê và khởi đại binh theo sau.

Một đại tướng khác là Trần Bách Niên thất vọng vì Mạc Mậu Hợp cũng sang hàng Nam triều. Liên tiếp hơn 10 tướng Mạc sang hàng Lê. Tình hình nhà Mạc ngày càng nguy cấp, khi đó trong triều chỉ còn trông cậy vào một mình Mạc Ngọc Liễn.

Ngày 14 tháng 11 quân Nam triều chia hai đường thuỷ lục cùng đánh từ Hát Giang. Mạc Ngọc Liễn dàn chiến thuyền chống cự, trồng cột gỗ dưới lòng sông, đắp luỹ trên bờ cố thủ. Trận chiến diễn ra ác liệt từ ngày 4 đến 14 tháng 12 năm 1592. Tới ngày 14 tháng 12 luỹ quân Mạc bị quân Nam triều phá, Ngọc Liễn bỏ thuyền chạy về núi Tam Đảo, quân Mạc tan vỡ.
Lập con thay ngôi

Trịnh Tùng đích thân đốc bộ binh, thừa thế đuổi dài, thủy quân cũng thuận dòng xuôi xuống, tới cửa Nam kinh thành Thăng Long, đóng tại bến Sa thảo, bắt được hơn nghìn chiến thuyền, kể cả lớn nhỏ.

Đêm 14 tháng 12, Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn, các tôn tộc cũng tìm đường trốn lánh. Tướng sĩ thì nối tiếp ra hàng. Tự đây, quân của nhà Mạc hết phần chiến đấu, tự sông Hồng trở về Bắc, quân sĩ kéo nhau ra qui thuận Nam triều.

Mạc Mậu Hợp thua trận, phải bỏ kinh thành chạy về Kim Thành (Hải Dương). Ngày 15 tháng 12, Trịnh Tùng tiến quân về Kim Thành.

Mậu Hợp trốn chạy, quân Nam triều thu được rất nhiều vàng bạc của cải, đồ dùng, bắt được Thái hậu mẹ của ông giải về Kinh sư, khi đến sông Bồ Đề, Thái hậu vì quá sợ mà chết.

Mạc Mậu Hợp dựng con trai là Mạc Toàn làm vua để giữ việc nước, đổi niên hiệu là Vũ An năm thứ nhất, còn ông tự mình làm tướng. Tuy nhiên tới lúc đó chính sự nhà Mạc đã không thể cứu vãn được nữa. Trịnh Tùng chia quân đánh các ngả, phá tan quân của một hoàng thân nhà Mạc là Mạc Kính Chỉ và sai quân đi truy lùng bắt ông.
Làm sư chẳng thoát

Khi quan Trịnh Tùng từ sông Tranh về Thăng Long, nghe có người báo rằng Mạc Mậu Hợp cạo đầu làm sư, ẩn ở chùa Mô Khuê hạt Phượng Nhãn. Trịnh Tùng bèn sai Nguyễn Đình Luận và Lưu Chản dẫn quân đi tìm bắt. Dân địa phương cho biết:

    Hôm nọ Mậu Hợp giả làm ông sư, đến ẩn ở đây, đến nay đã 11 ngày.

Quân Nam bèn tìm đến chùa. Lúc đó Mạc Mậu Hợp đang nghiễm nhiên ngồi xếp bằng tròn, gạn hỏi thì Mậu Hợp ấm ớ đáp rằng:

    Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này; chén muối, đĩa rau hàng ngày trai dưỡng; thắp hương thờ phật, công đức chuyên làm

Quân nam triều thấy nhà sư nói hoạt bát khiêm tốn, biết là Mậu Hợp, bèn bắt giữ. Ông tự liệu không thể thoát được, bèn thú thực và nói rằng:

    Mấy ngày trước đây, tôi chạy trốn ẩn núp trong rừng rậm, đã quá đói khát, dám xin cho một bình rượu uống cho đã.

Quân sĩ bèn cho bình rượu. Sau khi Mậu Hợp uống thỏa thích, ngậm ngùi than rằng:

    Nghiệp chướng quá sâu! Nay cầu làm một người dân thường, cũng không thể được. Tội lỗi chỉ vì tổ tiên đã làm sự giết vua cướp ngôi, đến nổi con cháu ngày nay phải mắc tội nặng như vầy. Mong tướng sĩ dẫn tôi đến trước Hoàng đế, để bầy tỏ thực tình. Đó là lòng tôi rất mong muốn

Quân Nam triều bèn sai dùng voi chở Mậu Hợp và 2 kỹ nữ, giải về Thăng Long. Khi ông tới trước hành doanh, Trịnh Tùng sai dàn binh mã cực kỳ uy nghiêm, rồi mới cho dẫn Mậu Hợp vào yết kiến. Mậu Hợp lễ dập đầu phủ phục ở ngoài sân. Trịnh Tùng truyền hỏi tới 3 lần, Mậu Hợp vì quá sợ, cứ ấm ớ không thể đáp được, Trịnh Tùng bèn sai dẫn ra ngoài cửa quân, giam tù tại đây.

Tất cả các quan văn võ của Nam triều đều bàn:

    Chiếu điều luật, những kẻ phạm tội thoán thí [3], thì xử theo luật "lăng trì" [4], để làm gương cho mọi người, và đúng phép nước; lại đem thủ cấp tế cáo nhà Tôn miếu, để rửa sỉ nhục của Tiên vương, và bớt cơn giận của thần nhân.

Trịnh Tùng thấy Mạc Mậu Hợp về hàng, không nỡ gia cực hình, bèn sai đem treo sống Mậu Hợp 3 ngày, rồi chém đầu tại bãi cát Bồ Đề, đem thủ cấp dâng lên vua Lê Thê Tông tại hành tại Vạn Lại ở Thanh Hoa, đem đóng đinh vào 2 con mắt, rồi bêu ra ngoài chợ.

Con trai ông là Toàn xưng hiệu là Vũ An, nhưng nhân tâm không qui phụ, thế cô ngầm trốn, không lâu sau cũng bị quân Nam triều bắt được, đem chém đầu tại bến Thảo Tân.

Mạc Mậu Hợp ở ngôi vua cộng 29 năm, thọ 30 tuổi. Vì ông bị giết và sau khi ông chết, nhà Mạc cũng mất nên không được đặt miếu hiệu và thuỵ hiệu.

Sự thất thế của Mạc Mậu Hợp trước hết là sống xa hoa, cái sai lầm căn bản là kiêu ngạo nên ít chịu nghe lời bàn về việc quân cũng như việc triều chính của các bậc lương thần, rồi sau đó là dùng Mạc Đôn Nhượng – một con người thiếu bản lĩnh, nhu nhược – làm phụ chính nên dẫn tới sự thất bại.

Tuy nhiên, sau cái chết của cha con ông, nhà Mạc không mất hẳn mà vẫn cát cứ tại Cao Bằng thêm hơn 80 năm nữa.
Việc thi cử

Trong thời gian làm vua, nối theo nề nếp của cha ông, Mạc Mậu Hợp mở tất cả bảy khoa thi. Khoa thi năm 1568 chọn Vũ Hữu Chính thủ khoa, 1571 chọn thủ khoa Nguyễn Mẫn, 1574 chọn Vũ Văn Khuê, 1577 chọn Vũ Giới, 1580 chọn Đỗ Cung và khoa thi 1583 chọn thủ khoa là Đỗ Tuấn Ngạn.

Ngay cả khi chiến sự ác liệt ở kinh thành, mùa hè năm 1592 ông vẫn mở khoa thi Cử nhân ở bến Bồ Đề, lấy Phạm Hữu Năng và 16 người trúng tuyển.
Gia quyến

Mẹ Mạc Mậu Hợp được xác định là vợ thứ của Mạc Tuyên Tông, năm 1600 bị quân Lê Trịnh giết khi cùng Mạc Kính Cung cố gắng khôi phục nhà Mạc.

Ông có một hoàng hậu là con gái của lão tướng Nguyễn Quyện. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, ngoài Vũ An đế Mạc Toàn, Mạc Mậu Hợp còn một người con lớn tuổi hơn, cùng tham gia việc khôi phục kinh thành Thăng Long năm 1600 với mẹ ông và Mạc Kính Cung.

0 Bình luận

Gửi bình luận:

Click here to cancel reply
Họ và tên
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Thư điện tử
Tỉnh thành