Số người đang online : 41 Đỗ Nhuận - Danh thắng - danh nhân, văn hóa - ẩm thực Việt Nam

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

Đỗ Nhuận
post image
Đỗ Nhuận

Đỗ Nhuận (1922 - 1991)

Sinh ngày 10/12/1922, quê ở thôn Hoạch Trạch xã Thái Học huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Đỗ Nhuận sống thời niên thiếu tại Hải Phòng. Ông là học sinh trường Bonnal.

Cảm hứng âm nhạc của Đỗ Nhuận bắt đầu từ quê hương và gia đình. Quê ông vốn có truyền thống hát chèo. Ngay từ năm 14 tuổi ông đã học âm nhạc dân tộc và biết chơi Sáo Trúc, Tiêu, Đàn Nguyệt, Đàn Tứ, Đàn Bầu. Những năm đi học ở Hải Phòng, ông sinh hoạt trong Hướng đạo sinh, trong các buổi sinh hoạt thường hát những bài hát Pháp và châu Âu. Tiếp đó không khí âm nhạc cải cách bắt đầu ảnh hưởng đến Đỗ Nhuận, ông học đàn Ghi ta, Bănggiô, Viôlông và ký âm pháp. Về ảnh hưởng và tiếp thu âm nhạc châu Âu và Pháp, riêng đối với các nhạc sĩ có tinh thần yêu nước, không thể không kể đến những ca khúc cách mạng của Pháp như Macxâye và Quốc tế ca.

Khác với phần đông các nhạc sĩ có khuynh hướng lãng mạn, Đỗ Nhuận giống Lưu Hữu Phước, vào âm nhạc bằng những bài ca yêu nước. Năm 1939 Đỗ Nhuận viết ca khúc đầu tiên khi mới ở tuổi 17: Trưng Vương, nhằm ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng ở Hải Dương. Trong những năm 1940-1941, Đỗ Nhuận dồn sức hoàn thành ca cảnh Nguyễn Trãi - Phi Khanh (gồm 3 ca khúc Chim than, Lời cha già, Đường lên ải Bắc). Chính những ca khúc này và một số hoạt động yêu nước trong thời gian ở Hải Phòng và một số nơi khác Đỗ Nhuận đã bị thực dân Pháp bắt đi đày ở Sơn La năm 1943. Tuy nhiên, sự cầm tù ấy càng làm Đỗ Nhuận gắn bó với cách mạng hơn. Chỉ một năm trong tù một loạt ca khúc đã ra đời: Chiều tù, Côn Đảo, Hận Sơn La, Tiếng gọi tù nhân (lời Đào Duy Từ), Viếng mồ tử sĩ. Ra tù, cảm hứng về rừng núi, về chiến khu và cách mạng đã giúp Đỗ Nhuận hoàn thành các ca khúc hừng hực khí thế tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám: Du kích ca (1944), Nhớ chiến khu (1945). Sau cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp gây hấn ở Nam Kỳ, Đỗ Nhuận có ngay ca khúc Tiếng súng Nam bộ, Tiếng hát đầu quân và Đoàn lữ nhạc.

Trong kháng chống Pháp, Đỗ Nhuận đã viết nhiều tác phẩm gây ấn tượng mạnh mẽ, thúc giục cả dân tộc vững bước trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Bên cạnh Áo mùa đông đằm thắm trữ tình là Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1951) trang trọng; bên cạnh Sóng cả không ngã tay chèo chân chất mộc mạc là Du kích sông Thao (1949) cuồn cuộn hoành tráng. Đặc biệt là bộ sử thi âm thanh về trận Điện Biên Phủ lịch sử: Hành quân xa (1953), Trên đồi Him Lam (1954), Chiến thắng Điện Biên (1954). Sau hòa bình lập lại, Đỗ Nhuận trở thành Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam và giữ chức vụ này trong hai khóa I và II (1957 - 1983). Đỗ Nhuận là nhạc sĩ duy nhất của thế hệ sau này được đi tu nghiệp đại học tại nhạc viện Tchaikovsky, Liên Xô, từ 1960-1963. Và ông là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Ô-pê-ra (Opéra) với Cô Sao (1965), Người tạc tượng (1971). Ông còn viết nhiều tác phẩm khí nhạc, trong đó có Vũ khúc Tây Nguyên cho Viôlông và dàn nhạc đã trở thành một tác phẩm có giá trị kinh điển.

Tác phẩm của ông trong những năm 60,70 Thế kỷ 20: Em là thợ quét vôi, Tôi thích thể thao (bài hát toàn chữ T), Việt Nam quê hương tôi, Đường bốn mùa xuân, Người chiến thắng là anh (viết cùng thầy Phêrê-V.Fére), Giặc đến nhà ta đánh, Vui mở đường, Trống hội tòng quân, Trai anh hùng gái đảm đang, Hát mừng các cụ dân quân, Trông cây lại nhớ đến người (cải biên hò ví dặm), Bài ca cách mạng tiến quân... Âm nhạc của Đỗ Nhuận giàu bản sắc dân tộc, phong phú về chất liệu, ngôn ngữ biểu hiện giản dị, mộc mạc trữ tình, đằm thắm, hóm hỉnh. Nhạc sĩ đã được nhận nhiều huân chương cao quý, đặc biệt là Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I truy tặng, 1996).

Ông mất ngày 18/5/1991 tại Hà Nội.

0 Bình luận

Gửi bình luận:

Click here to cancel reply
Họ và tên
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Thư điện tử
Tỉnh thành