Lễ kỳ yên mang ý nghĩa là ngày giỗ hội của làng. Mục đích của lễ kỳ yên là tế thần thành hoàng để cầu quốc thái dân an, xóm làng thịnh vượng, no ấm.
Phần Lễ gồm có các nghi lễ chính là: lễ thỉnh sắc thần; lễ tế Thần Nông, cúng miễu, liệt sĩ; lễ Túc yết; lễ Chánh tế; lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, Hội viên quá vãng; lễ đưa sắc thần.
Các đình đều thờ tiền hiền, hậu hiền là những người có công quy dân lập làng hoặc bỏ tiền của xây dựng các công trình phúc lợi công cộng đầu tiên, để lại gương soi cho đời sau. Vì thế nên trong chương trình lễ kỳ yên đều có nghi tiết tế các vị tiền bối hữu công kể trên. Cũng mang ý nghĩa “uống nước nhớ nguồn” như vậy, nhiều đình bày ra nghi tiết tế Quốc Tổ Hùng Vương, Bác Hồ hoặc liệt sĩ. Nói tóm lại, ngày kỳ yên mang ý nghĩa là ngày giỗ hội của làng. Người ở địa phương, dù có làm ăn xa, đến ngày ấy đều mong muốn trở về tham dự. Tất cả các nghi tiết dù ngắn dài, phong phú hay đơn giản… đều mang ý nghĩa biểu lộ tấm lòng thành của mình.
Riêng đối với các danh nhân ở địa phương như Hữu phủ Tống Phước Hiệp, Lâm Thao Quận công Châu Văn Tiếp, Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn hay quan Tiền hiền Phan Công An, ngày lễ hội gắn liền với ngày giỗ, ngày kỷ niệm. Nghi thức tế lễ cũng tương tự nghi thức tế lễ trong ngày kỳ yên. Có thể nói, lễ kỳ yên ở đình làng là nghi thức căn bản, có thể áp dụng cho tất cả các đền miếu. Riêng ngày giỗ Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn (ngày mùng 3 và mùng 4 Tết) mang đủ màu sắc Kinh – Hoa – Khmer, là một ngày lễ hội đẹp mắt, hấp dẫn.
Các nghi lễ thường giống nhau, gồm một tiết mục dâng hương, 3 lần dâng rượu, một lần dâng trà. Cuối một nghi lễ đều có một bài văn tế thay cho lời khấn, nội dung gồm những lời tán dương thần thánh và lời cầu nguyện của dân làng. Khi tế lễ phải có giàn nhạc cụ gõ nhịp gồm : mõ, chiêng, trống, chuông. Mõ mang tượng trưng cho uy quyền địa phương nên được dẫn đầu. Các buổi lễ tế Khổng Tử, Quan Công hoặc một số thần linh khác không được dùng mõ. Ngoài giàn nhạc cụ gõ nhịp vừa kể còn có giàn nhạc lễ, đủ ngũ âm. Người phục vụ tế lễ gồm có một cặp lễ sanh xướng ngôn, một cặp lễ sanh lặp lại (do chưa có máy khuếch đại), một cặp lễ sanh bưng đèn và một cặp lễ sanh dâng lễ vật. Ngoài ra, trước các lễ sanh đăng đài có thể có võ sĩ múa dẫn lễ (mô phỏng điệu “Tiên nữ dâng hoa” nhà chùa khi dâng lục cúng). Phía sau các lễ sanh vừa kể cũng có thể có mấy cô đào hóa trang thành các tiên nữ vừa đi vừa cầm quạt hát theo điệu thài. Tất cả các tiết mục vừa kể do một người am tường gọi là Hương lễ chỉ huy.
Trong thực tế lễ kỳ yên thì phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Ở đây, các đối tượng cúng lễ là tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng bổn cảnh. Do đó, khi cúng đình cũng có nghĩa là cúng miễu. Trước kia, khi cúng miễu phải mời bà bóng đến rồi mời múa hát. Lễ kỳ yên cũng có nghĩa là “lễ cầu an” nên thường mời các vị chân tu đến tụng kinh cầu an hoặc mời thầy pháp để gõ đầu tiễn thần “ôn hoàng dịch lệ” đem sự an lành cho xóm làng. Thế nhưng, khoảng mấy mươi năm trở lại đây, tục mời bà bóng và thầy pháp không còn. Lễ kỳ yên mang tính thuần khiết hơn.
Lễ kỳ yên là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện gia đình yên ấm, vui chơi. Xưa kia, các đình vùng Vĩnh Long có tục cứ ba năm đáo lệ tổ chức hát bội cúng thần giúp vui bá gia bá tánh. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày kỳ yên không phải là loại văn nghệ bình thường, mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu.
Lễ kỳ yên còn là dịp để các nghệ nhân giới thiệu sự khéo léo của mình như chưng hoa kết quả hoặc giới thiệu cái đỉnh đồng, cái lọ cắm hoa. Kỳ yên còn là dịp cho người làm vườn giới thiệu các loại cây trái mới, người làm ruộng giới thiệu các giống nếp ngon qua tài thổi xôi, làm bánh của các chị em phụ nữ.
Nói đến hội hè là nói đến tiệc tùng yến ẩm. Thế nhưng từ xưa, ở địa phương này đã có lệ, hễ hưởng lộc nhiều thì đóng góp nhiều nên không có cảnh “một miếng thịt làng bằng một sàng xó bếp”, không có tục “chiếu trên, chiếu dưới” nhậu nhẹt say sưa. Do đó, tiệc tùng yến ẩm trong ngày lễ kỳ yên chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi.
Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường - Sách Tìm hiểu Văn hóa Vĩnh Long
Share on facebook 0 người thích - Like