Đền Bia thuộc thôn Văn Thai xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng. Đền Bia được xây dựng để thờ Tuệ Tĩnh và tấm bia thời Lê là di vật kỷ niệm của Tuệ Tĩnh nên có tên là Đền Bia. Theo tư liệu lịch sử đang lưu hành thì khi Tuệ Tĩnh 55 tuổi đi sứ Trung Quốc và mất tại Giang Nam.
Về tấm bia thời Lê thờ tại đền có lịch sử như sau: Nhân dân địa phương cho biết tấm bia này do tiến sĩ Nguyễn Danh Nho (1638-1699) là người cùng làng với Tuệ Tĩnh soạn khắc vào năm 1699 khi ông đi sứ Trung Quốc đã đến viếng mộ Tuệ Tĩnh tại Giang Nam, đọc mặt sau tấm bia trên mộ thấy có ghi chữ : "Về sau có ai bên nước sang, nhớ cho hài cốt tôi về với", Nguyễn Danh Nho đã vô cùng xúc động trước tình cảm luôn hướng về quê hương đất nước của Tuệ Tĩnh nên đã cho dập mẫu tấm bia mang về nước, thuê thợ làm lại và chở về quê. Khi đó cả vùng quê ông bị ngập nước, xuôi thuyền đến địa phận đền hiện nay thì thuyền bị lật, tấm bia rơi xuống nước không lấy lên được, ít lâu sau nước cạn, nhân dân tìm thấy bia, thấy doi đất ở đây có hình con dao cầu (dao thái thuốc nam) nên đã dựng miếu thờ bia. Từ ngày dựng bia, người khắp nơi kéo về lấy thuốc, hái lá, xin nước đền Bia về uống với hy vọng mọi bệnh sẽ khỏi. Tương truyền vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) mỗi ngày có tới hàng nghìn người đến Đền Bia, nên vua đã hạ chiếu cấm việc cúng lễ và xin thuốc mang mầu sắc mê tín và mất vệ sinh, và sai người đem tấm bia về cất tại kho ở Hải Dương, sau này có một người làng Văn Thai làm chức thủ kho đã bí mật lấy lại bia đem về đền thờ.
Đền Bia nguyên được xây dựng từ thời Lê, trùng tu vào năm 1936, kiến trúc kiểu tiền nhất hậu đinh, mặt tiền quay hướng bắc, xung quanh cây cối xanh tươi và nằm giữa cánh đồng thuộc hai xã Cẩm Văn và Cẩm Vũ của huyện Cẩm Giàng, đền có vườn thuốc nam rộng lớn, phong phú các loại dược liệu, toà tiền tế trùng tu năm 1993 phỏng theo kiến trúc thời Nguyễn khá đẹp gồm 5 gian với diện tích 120 m2, trung từ và hậu cung nhỏ nhưng còn chắc chắn và đồng bộ từ kiến trúc đến các đồ thờ tự, nhà kiểu lòng thuyền tứ trụ, vì con chồng đấu sen, bức cốn chạm long cuốn thuỷ và hoa lá, chính giữa treo bức đại tự sơn son thiếp vàng ghi 4 chữ: " Thánh cung vạn tuế" nghĩa là: " Đức thánh muôn tuổi". Hai cột treo đôi câu đối ca ngợi Tuệ Tĩnh:
" Hoàng giáp phương danh đằng bắc địa
Thánh sư dược diệu trấn Nam bang"
Nghĩa là:
" Thi đậu hoàng giáp tiếng lừng đất bắc
Chữa bệnh thần diệu tài quán nước Nam".
Di tích còn nhiều cổ vật có giá trị từ các triều đại phong kiến như bệ đá thời Nguyễn chạm khắc tứ linh, tứ quý, cỗ khám sơn son thiếp vàng, tượng Tuệ Tĩnh, đặc biệt là tấm bia thời Lê là di vật kỷ niệm của Tuệ Tĩnh, được nhân dân địa phương coi như báu vật bảo quản tại hậu cung của đền.
Năm 2003 dự án trùng tu lớn đền Bia đã được phê duyệt, sau hơn 3 năm xây dựng công trình được khánh thành vào năm 2006 với tổng kinh phí là 14 tỷ 8 trăm triệu đồng. Tổng diện tích khu di tích là 3 ha, 7 mẫu gồm hai khu là: Khu thờ tự và khu y xá. Khu thờ tự gồm 5 công trình: Tam quan, nhà thuỷ đình, nhà tả vu và hữu vu, tiền tế và hậu cung, tổng số 23 gian, còn lại là sân vườn, tường bao và cổng. Kiến trúc phỏng theo thời Nguyễn, với chất lượng gỗ lim toàn phần, gạch Bát Tràng. Khu y xá gồm 3 công trình: Nhà bắt mạch kê đơn thuốc, nhà bốc thuốc và nhà chẩn trị, mỗi công trình 5 gian. Ngoài ra còn có nhà từ tâm dùng đón tiếp khách. Khu di tích đền Bia nằm ở cánh đồng nơi tiếp giáp giữa làng Văn Thai và làng Nghĩa Phú, tạo nên một không gian hoành tráng, cổ kính hài hoà với thiên nhiên.
-Lễ hội Đền Bia:
Trước khi có Đền Bia, nơi đây chỉ là một đống đất cao, nhưng vì khu đất có hình con dao cầu nên nhân dân vẫn thường tự đến cắm hương lễ bái, sau khi tấm bia được dựng nên thì mới dựng đền thờ tấm bia, ban đầu đền làm bằng gianh, tre, nhưng năm nào cũng bị cháy, vì thế dân làng mới cho lập một ngôi đền gọi là Đền Trung ở gần vị trí làng Văn Thai để thờ vọng lên đền Bia, sau đó mới xây dựng đền Bia bằng vật liệu gạch, gỗ lim chắc chắn hơn, từ đó dân làng lễ tại hai đền và gọi là đền Trung và đền Thượng.
Theo nhân dân địa phương cho biết lễ hội đền Bia được bắt đầu từ năm 1830, đó là vào đời vua Minh Mạng thứ 11, tương truyền có thánh ứng vào ngày mùng 1 tháng 4 (âm lịch) và lễ hội diễn ra từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 4 tháng 4, trong 4 ngày đó nhân dân gọi là Hội thánh ứng lần thứ nhất và chính là ngày giỗ của thiền sư Tuệ Tĩnh. Lễ hội do lý trưởng, hội đồng tộc biểu và các vị chức sắc của làng và các giáp đứng ra tổ chức, diễn biến của lễ hội thánh ứng lần thứ nhất có thể miêu tả như sau:
- Thánh ứng lần thứ nhất ( năm 1830):
*Ngày mùng 1 tháng 4:
Nhân dân tổ chức lễ rước bát hương và hòm sắc từ đền Trung ra đền Bia (đền Thượng), lễ rước gồm hai kiệu, kiệu thứ nhất rước bát hương gồm 12 thanh niên khoẻ mạnh mặc áo màu đỏ khiêng, những người khiêng kiệu được chọn từ các giáp của làng tuổi từ 18 đến 30. Kiệu thứ hai rước hòm sắc bố trí 4 người khiêng, trên kiệu có long đình đặt hòm sắc, đoàn rước bố trí như sau:
Đi đầu là những thanh niên cầm cờ, bát biểu, sau đó đến đội chiêng, trống, tiếp đến là kiệu bát hương, đi theo sau kiệu là các vị chức sắc của làng, xã, mặc áo lương, khăn xếp, kiệu được hai người cầm tàn lọng che hai bên, sau đó đến kiệu hòm sắc, theo sau là các vị trong hội đồng tộc biểu của làng, giáp trong xã, tiếp đến là đoàn các cụ, dân làng mặc áo dài, vấn khăn đội lễ vật và nhân dân đi theo. Lễ vật gồm lợn luộc để cả con, mâm xôi, trầu, rượu và hoa quả, đèn hương... nói chung đều là sản vật của quê hương. Đoàn rước đi trong tiếng chiêng, trống rộn ràng, không khí lễ hội tưng bừng hoà với quần áo đủ sắc màu. Khi đoàn rước đến đền bia, kiệu được đặt tại vị trí trang trọng và tổ chức tế thánh, đội tế nam gồm 15 người, chủ tế phải là tiên chỉ của làng.
* Ngày mùng 2 tháng 4:
Tại đền Trung và đền Thượng (đền Bia) nhân dân đến tự do lễ bái và xin thuốc, gọi là hội thánh vì nơi đây thờ tấm bia kỷ niệm Tuệ Tĩnh, người được tôn là thánh thuốc nam, tương truyền trong những ngày diễn ra lễ hội ai vào đền Bia đều bứt lá đặt lên lễ thánh sau đó mang về sắc uống đều khỏi bệnh (bách bệnh), người nọ truyền người kia cho nên dân các nơi kéo về đền Bia rất đông, nhân dân trong làng đem ra đền đủ các loại lá để làm lễ bán, như lá tre dây, lá ngải cứu, lá cúc tần, lá mít, lá bưởi... ai mua lá xong đều phải đặt vào lễ thánh thì lá đó sắc uống mới khỏi bệnh vì lá đó đã được Thánh ứng. Năm 1830 có hàng vạn người đến lễ và xin thuốc thánh, nhân dân địa phương phải làm nhà sàn xung quanh đền để phục vụ. Không khí lễ hội nhộn nhịp suốt ngày đêm, cuốn hút tất cả mọi người trong làng xã, trong các làng chỉ còn các cụ già và trẻ con còn bé còn tất cả đều ra đền phục vụ lễ hội thánh.
* Ngày mùng 3 tháng 4:
Nhân dân địa phương và các nơi vẫn đến đặt lễ thánh và xin thuốc. Để có không khí lễ hội, làng có tổ chức một số trò chơi dân gian như đánh cờ, bịt mắt bắt dê, đi cầu kiều, có treo giải thưởng. Buổi tối tổ chức hát chèo đến khuya.
*Ngày mùng 4 tháng 4:
Tổ chức rước kiệu bát hương và hòm sắc trở lại đền Trung và làm lễ tạ thánh, diễn biến của đoàn rước cũng diễn ra như khi rước ngày mùng 1 tháng 4, sau đó kết thúc hội đóng cửa đền.
Từ năm 1830 đến năm 1950 lễ hội hàng năm vẫn được hội đồng tộc biểu duy trì và tổ chức đầy đủ lệ bộ nhưng người đến dự Hội không đông bằng năm 1830. Lễ hội ở đây có lệ kiêng: Nhà ai có đại tang không được vào rước kiệu, ai ăn thịt chó thì không được vào đền làm lễ, mọi người đều phải kiêng đúng như quy định nếu ai làm sai sẽ bị làng phạt.
- Thánh ứng lần thứ hai ( năm 1936):
Hơn 100 năm, sau Thánh ứng lần thứ nhất năm1830, vào năm Bảo Đại thứ 11 (1936) tương truyền có Thánh ứng lần thứ hai, lễ hội Thánh cũng được tổ chức 4 ngày, từ mùng 1 tháng 4 đến ngày mùng 4 tháng 4 (âm lịch) như dịp Thánh ứng lần thứ nhất. Nhưng lần này người đến lễ và xin thuốc đông hơn lần một rất nhiều, mỗi ngày có tới hàng vạn người từ các nơi đổ về xin lá thuốc, tất cả những thứ lá gì trong đền cũng đều được coi là thuốc quý chữa bách bệnh. Nhân dân từ khắp các tỉnh thành trong Nam, ngoài Bắc đều kéo nhau về đền để lễ và xin thuốc, nhân dân địa phương gọi là hiện tượng " hiển thánh".
Từ đó đến nay lễ hội vẫn diễn ra bình thường nhưng không đông như năm 1936 nữa, vào năm 1962 đền Trung bị giải hạ, từ đó lễ hội tập trung vào đền Bia là chính.
Xét quy mô lễ hội cổ truyền Đền Bia đó là một lễ hội với quy mô rộng lớn hầu như trong cả nước, nhân dân từ khắp ba miền đất nước kéo về lễ hội như một hiện tượng đặc biệt vì sự "hiển thánh" ở Đền Bia truyền đi rất nhanh, nhân dân rất tin vào vị Thánh thuốc nam Tuệ Tĩnh.
Từ năm 1992 xã Cẩm Văn thành lập Chi hội đông y, chuyên sản xuất, kê đơn bốc thuốc nam, bắc, số hội viên khá đông, địa điểm đặt tại đền Bia, xung quanh đền trồng nhiều cây thuốc, vào những ngày hội nhân dân đến dự hội, lễ Thánh và vẫn xin thuốc chữa bệnh, mặt khác còn có thày thuốc bắt mạch lấy thuốc tại đền, Chi hội đông y đền Bia là chi hội mạnh của Chi hội đông y huyện Cẩm Giàng và tỉnh Hải Dương, hoạt động có hiệu quả tốt, phát huy truyền thống của thuốc nam Tuệ Tĩnh.
Ngày nay di tích đền Bia vẫn được chính quyền địa phương đứng ra tổ chức, những hình thức cổ truyền trong dịp hội vẫn được kế thừa có chọn lọc, tiếp tục duy trì được những phong tục hay và loại trừ những biểu hiện, những hành động chưa tốt, cùng nhau xây dựng quê hương.
Sau một năm lao động vất vả, những ngày hội vui vẻ đem đến cho người dân sự thoải mái, đồng thời thắt chặt thêm tình đoàn kết xóm làng, dòng tộc trong những dịp lễ hội thiêng liêng. Số tiền công đức của thập phương được công khai để xây dựng di tích, nhân dân địa phương có dịp được giao lưu với nhân dân các tỉnh khác về dự lễ hội. Song lễ hội cũng cần khắc phục một số hạn chế hiện tượng một số người lợi dụng lễ hội để kinh doanh, có như vậy việc tổ chức lễ hội mới thực sự có ý nghĩa trong đời sống tinh thần của nhân dân./.
Theo haiduongdost.gov.vn
Share on facebook 0 người thích - Like