DI TÍCH LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG PLEI KẦN
1. Tên di tích: di tích lịch sử chiến thắng Plei Kần
2. Loại công trình:
3. Loại di tích: lịch sử
4. Quyết định: Được công nhận di tích theo quyết định số 06/2000/QĐ-BVHTT ngày 13 tháng 04 năm 2000
5. Địa chỉ di tích: xã Đắk Xú, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
6. Tóm lược thông tin về di tích
Plei Kần, (thuộc huyện Ngọc Hồi nằm ở phía Bắc tỉnh Kon Tum) trên sườn đông dãy Trường Sơn, nổi tiếng với ngã ba Đông Dương, biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia.
Plei Kần là nơi giao nhau của nhiều con lộ huyết mạch, gồm đường 14B căng ngang suốt từ Bắc vào Nam, tiếp tục đi về phía nam qua Đăk Tô- Tân Cảnh, Kon Tum.
Từ cửa rừng quốc gia Chư Mom Ray - nơi khởi nguồn quốc lộ 14C huyền thoại, con đường mòn Hồ Chí Minh xuyên dãy Trường Sơn. Plei Kần cũng là nơi bắt đầu quốc lộ 40, con đường xuyên Đông Dương qua cửa khẩu Bờ Y sang Lào, Campuchia và Myanmar.
Plei Kần (theo tiếng nói của người dân tộc Xê Đăng là làng lớn) trước năm 1965 là một làng lớn ở đồng bào dân tộc Xê Đăng họ chung sống hoà thuận cùng các dân tộc anh em; Brâu, HLăng, Kdong trong khu vực ngã ba biên giới 3 nước Việt Nam, Lào, Cam – Pu – Chia
Cuối năm 1964 nhận rõ vai trò vị trí chiến lược quan trọng khu vực ngã ba biên giới Đông dương. Thực hiện chính sách dồn dân lập ấp để cách li đồng bào với lực lượng cách mạng, Mỹ đã dồn dân về làng Đắk Rnăng (Tân cảnh) lập ấp chiến lược.
Cuối năm 1966 Mỹ tiến hành xây dựng Plei Kần thành một cụm cứ điểm án ngữ ngã ba biên giới nhằm chặn sự tiến công của bộ đội chủ lực của ta từ Bắc vào và từ Lào, Cam – Pu – Chia sang.
Do vị trí chiến lược quan trọng Plei Kần được Mỹ xây dựng ngày càng vững chắc; lợi dụng những điểm cao đột xuất, có suối và đầm lầy bao quanh ba mặt với chiều dài hơn 3,5 km và chiều rộng khoảng 2,5 km. Địch đã xây dựng ở đây thành 5 cứ điểm có hầm ngầm, lô cốt công sự vững chắc. Mỗi cứ điểm mang tính chất phòng ngự độc lập đồng thời có thể chi viện cho nhau trong một kế hoạch hoàn chỉnh. Khu vực trung tâm gồm 3 cứ điểm chính (A, B, C) tạo thành chân kiềng vững chắc. Giữa các khu vực cách nhau từ 600 đến 1000m. Cách xa hơn là hai quả đồi đặt hai chốt giữ gọi là khu D và khu E nhằm ngăn chặn sự tiến công của ta từ xa.
Tại căn cứ này thường xuyên có một phân đội xe tăng, có sân bay dã chiến dài 1000m, rộng 60m máy bay vận tải C130 có thể lên xuống dễ dàng, có trận địa pháo (155mm, 105mm, DKZ…) … Toàn căn cứ có khoảng 300 lô cốt, nhiều công sự chiến đấu và có hệ thống hào nối liền các tuyến với nhau.
Tại đây chúng luôn có dự trữ lương thực, đạn dược đủ chiến đấu trong vòng 6 tháng nếu bị bao vây. Từ năm 1967 đến 1969 Cứ điểm Plei Kần do một tiểu đoàn Mỹ chốt giữ. Đến cuối năm 1968 sau khi thất bại năng nề với “Việt Nam hóa chiến tranh” chúng đã giao cụm cứ điểm này cho tiểu đoàn 95 biệt động biên phòng ngụy đảm nhiệm. Chỉ để lại một tổ cố vấn Mỹ. Từ năm 1969, tại đây thường xuyên có từ 450 đến 500 lính biệt động biên phòng và hai đội pháo binh trung đoàn 42 sư 22 ngụy.
Về phía ta cũng xác định Plei Kần là một cứ điểm quan trọng trên con đường hành lang biên giới này. Chúng ta đã tổ chức nhiều trận đánh; năm 1967, tháng 2/1969, 1970, 1971 và tháng 5/1972. Trong các trận đánh đó có hai lần chúng ta phải ra quân với lực lượng trung đoàn bộ binh cộng với xe tăng và pháo binh yểm trợ song không tiêu diệt được.
Đầu tháng 10 năm 1972, nhằm hoàn chỉnh vùng giải phóng, mở rộng hành lang chuyển xuống phía Đông và khai thông biên giới. Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã giao cho sư đoàn 10 nhiệm vụ tiêu diệt cụm cứ điểm này. Trung đoàn 66, tiểu đoàn 37 đặc công và toàn bộ lực pháo binh sư đoàn được lệnh tiến đánh cứ điểm Plei Kần.
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Địch cho 57 lượt máy bay bắn phá trận địa pháo của ta. Song với tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường sau hơn hai ngày đêm chiến đấu 18h30 ngày 12/10/1972 chúng ta đã hoàn toàn làm chủ khu trung tâm chỉ huy (Khu A) của địch. Trung đoàn 66 cùng tiểu đoàn 37 đặc công đựơc sự chi viện đắc lực của pháo binh đã hoàn toàn làm chủ căn cứ Plei Kần. Ta đã tiêu diệt 404 tên, bắt sống 65 tên bắn rơi 6 máy bay, thu 6 khẩu pháo 105mm, 2 pháo 155mm, 2 súng cối 106mm, 107mm, 4 xe tăng và toàn bộ kho tàng, đạn dược. Chúng ta đã xóa sổ một tiểu đoàn mà địch đã phong tặng “Tiểu đoàn anh hùng” của Mỹ.
Cứ điểm Plei Kần bị xóa sổ, mở ra vùng giải phóng rộng lớn, khai thông tuyến hành lang biên giới Đông dương. Con đường vận tải chiến lược của ta từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam bằng con đường Hồ Chí Minh trở thành một hệ thống liên hoàn, vững chắc. Mở đầu cho sự thất bại dây chuyền, đi đến sự sụp đổ thảm hại của toàn bộ hệ thống chính quyền tay sai và bọn đế quốc trên mặt trận Tây Nguyên nói riêng và góp phần làm lên đại thắng mùa xuân năm 1975.
Được công nhận di tích theo quyết định số 06/2000/QĐ-BVHTT ngày 13...
DI TÍCH LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG PLEI KẦN
1. Tên di tích: di tích lịch sử chiến thắng Plei Kần
2. Loại công trình:
3. Loại di tích: lịch sử
4. Quyết định: Được công nhận di tích theo quyết định số 06/2000/QĐ-BVHTT ngày 13 tháng 04 năm 2000
5. Địa chỉ di tích: xã Đắk Xú, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
6. Tóm lược thông tin về di tích
Plei Kần, (thuộc huyện Ngọc Hồi nằm ở phía Bắc tỉnh Kon Tum) trên sườn đông dãy Trường Sơn, nổi tiếng với ngã ba Đông Dương, biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia.
Plei Kần là nơi giao nhau của nhiều con lộ huyết mạch, gồm đường 14B căng ngang suốt từ Bắc vào Nam, tiếp tục đi về phía nam qua Đăk Tô- Tân Cảnh, Kon Tum.
Từ cửa rừng quốc gia Chư Mom Ray - nơi khởi nguồn quốc lộ 14C huyền thoại, con đường mòn Hồ Chí Minh xuyên dãy Trường Sơn. Plei Kần cũng là nơi bắt đầu quốc lộ 40, con đường xuyên Đông Dương qua cửa khẩu Bờ Y sang Lào, Campuchia và Myanmar.
Plei Kần (theo tiếng nói của người dân tộc Xê Đăng là làng lớn) trước năm 1965 là một làng lớn ở đồng bào dân tộc Xê Đăng họ chung sống hoà thuận cùng các dân tộc anh em; Brâu, HLăng, Kdong trong khu vực ngã ba biên giới 3 nước Việt Nam, Lào, Cam – Pu – Chia
Cuối năm 1964 nhận rõ vai trò vị trí chiến lược quan trọng khu vực ngã ba biên giới Đông dương. Thực hiện chính sách dồn dân lập ấp để cách li đồng bào với lực lượng cách mạng, Mỹ đã dồn dân về làng Đắk Rnăng (Tân cảnh) lập ấp chiến lược.
Cuối năm 1966 Mỹ tiến hành xây dựng Plei Kần thành một cụm cứ điểm án ngữ ngã ba biên giới nhằm chặn sự tiến công của bộ đội chủ lực của ta từ Bắc vào và từ Lào, Cam – Pu – Chia sang.
Do vị trí chiến lược quan trọng Plei Kần được Mỹ xây dựng ngày càng vững chắc; lợi dụng những điểm cao đột xuất, có suối và đầm lầy bao quanh ba mặt với chiều dài hơn 3,5 km và chiều rộng khoảng 2,5 km. Địch đã xây dựng ở đây thành 5 cứ điểm có hầm ngầm, lô cốt công sự vững chắc. Mỗi cứ điểm mang tính chất phòng ngự độc lập đồng thời có thể chi viện cho nhau trong một kế hoạch hoàn chỉnh. Khu vực trung tâm gồm 3 cứ điểm chính (A, B, C) tạo thành chân kiềng vững chắc. Giữa các khu vực cách nhau từ 600 đến 1000m. Cách xa hơn là hai quả đồi đặt hai chốt giữ gọi là khu D và khu E nhằm ngăn chặn sự tiến công của ta từ xa.
Tại căn cứ này thường xuyên có một phân đội xe tăng, có sân bay dã chiến dài 1000m, rộng 60m máy bay vận tải C130 có thể lên xuống dễ dàng, có trận địa pháo (155mm, 105mm, DKZ…) … Toàn căn cứ có khoảng 300 lô cốt, nhiều công sự chiến đấu và có hệ thống hào nối liền các tuyến với nhau.
Tại đây chúng luôn có dự trữ lương thực, đạn dược đủ chiến đấu trong vòng 6 tháng nếu bị bao vây. Từ năm 1967 đến 1969 Cứ điểm Plei Kần do một tiểu đoàn Mỹ chốt giữ. Đến cuối năm 1968 sau khi thất bại năng nề với “Việt Nam hóa chiến tranh” chúng đã giao cụm cứ điểm này cho tiểu đoàn 95 biệt động biên phòng ngụy đảm nhiệm. Chỉ để lại một tổ cố vấn Mỹ. Từ năm 1969, tại đây thường xuyên có từ 450 đến 500 lính biệt động biên phòng và hai đội pháo binh trung đoàn 42 sư 22 ngụy.
Về phía ta cũng xác định Plei Kần là một cứ điểm quan trọng trên con đường hành lang biên giới này. Chúng ta đã tổ chức nhiều trận đánh; năm 1967, tháng 2/1969, 1970, 1971 và tháng 5/1972. Trong các trận đánh đó có hai lần chúng ta phải ra quân với lực lượng trung đoàn bộ binh cộng với xe tăng và pháo binh yểm trợ song không tiêu diệt được.
Đầu tháng 10 năm 1972, nhằm hoàn chỉnh vùng giải phóng, mở rộng hành lang chuyển xuống phía Đông và khai thông biên giới. Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã giao cho sư đoàn 10 nhiệm vụ tiêu diệt cụm cứ điểm này. Trung đoàn 66, tiểu đoàn 37 đặc công và toàn bộ lực pháo binh sư đoàn được lệnh tiến đánh cứ điểm Plei Kần.
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Địch cho 57 lượt máy bay bắn phá trận địa pháo của ta. Song với tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường sau hơn hai ngày đêm chiến đấu 18h30 ngày 12/10/1972 chúng ta đã hoàn toàn làm chủ khu trung tâm chỉ huy (Khu A) của địch. Trung đoàn 66 cùng tiểu đoàn 37 đặc công đựơc sự chi viện đắc lực của pháo binh đã hoàn toàn làm chủ căn cứ Plei Kần. Ta đã tiêu diệt 404 tên, bắt sống 65 tên bắn rơi 6 máy bay, thu 6 khẩu pháo 105mm, 2 pháo 155mm, 2 súng cối 106mm, 107mm, 4 xe tăng và toàn bộ kho tàng, đạn dược. Chúng ta đã xóa sổ một tiểu đoàn mà địch đã phong tặng “Tiểu đoàn anh hùng” của Mỹ.
Cứ điểm Plei Kần bị xóa sổ, mở ra vùng giải phóng rộng lớn, khai thông tuyến hành lang biên giới Đông dương. Con đường vận tải chiến lược của ta từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam bằng con đường Hồ Chí Minh trở thành một hệ thống liên hoàn, vững chắc. Mở đầu cho sự thất bại dây chuyền, đi đến sự sụp đổ thảm hại của toàn bộ hệ thống chính quyền tay sai và bọn đế quốc trên mặt trận Tây Nguyên nói riêng và góp phần làm lên đại thắng mùa xuân năm 1975.
Lễ dâng hương tết Nguyên đán 2012
Giáo dục truyền thống lịch sử địa phương
Cận cảnh khu di tích
Bằng công nhận di tich lịch sử
Share on facebook 0 người thích - Thích
0 Bình luận