Số người đang online : 24 Trần Văn Thành - Danh thắng - danh nhân, văn hóa - ẩm thực Việt Nam

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

Trần Văn Thành
post image
Trần Văn Thành

Bạn biết không, ở An giang có một lễ giỗ rất lớn đã thu hút nhiều người đến tham dự. Đó chính là lễ giỗ nhà yêu nước Trần Văn Thành được tổ chức trọng thể hàng năm vào ngày 21 và 22 tháng 2 âm lịch, đã quy tụ đông đảo đồng bào nhiều nơi ở An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp... đến tưởng niệm.

Lễ giỗ được tổ chức tại đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành. Nó còn có tên là Bửu Hương Tự, nằm dọc trên bờ kênh Xáng Vịnh Tre, thuộc ấp Long Châu I, xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú. Đi theo Quốc lộ 91, đến địa phận Châu Phú, qua chợ Cái Dầu rồi đến chợ Vịnh Tre, bạn sẽ gặp một bảng chỉ dẫn rất lớn để biết được lối rẽ vào con đường nhỏ bên trong, đi thêm khoảng 10 km nữa thì đến đền thờ của ông Cố quản.

Đây là lần thứ 135 của lễ giỗ Đức cố quản, đồng thời cũng là lần thứ 6 của lễ hội văn hóa truyền thống huyện Châu Phú. Ở đây đã tổ chức một chương trình ca nhạc đặc biệt để đón chào hai lễ hội lớn này. Đó là chương trình văn nghệ được các đoàn Nghệ thuật của huyện và các huyện lân cận đến biểu diễn, với chủ đề ca ngợi về công lao của Trần Văn Thành, về mảnh đất và con người Châu Phú thân yêu. Không gian lễ hội vui nhộn với các trò chơi lô tô, ném vòng, các gian hàng bán đồ lưu niệm...

Đến được đền thờ bạn thật khó vào được bên trong ngày lễ giỗ, vì số lượng khách hành hương đã về đây từ sớm và rất đông. Khói hương luôn nghi ngút trong đền thờ và trước bức ảnh ngự trị ngoài sân đền của ông Cố. Trước cảnh tượng đó một câu hỏi đã được đặt ra trong tôi rằng: "Trần Văn Thành là một nhà yêu nước như thế nào, ông đã có những chiến công gì mà mọi người lại kính trọng ông đến vậy?" Qua tìm hiểu từ những người trong Ban tổ chức lễ giỗ, tôi đã biết tường tận về cuộc đời chống giặc của ông.

Trần Văn Thành không rõ năm sinh, mất năm 1873. Ông quê làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Ông là một trong số đại đệ tử của Đoàn Minh Huyền, giáo chủ Bửu Sơn Kỳ Hương, cùng tín đồ khẩn hoang Láng Linh - Bảy Thưa (Châu Phú).

Từ năm 1840, Ông nhập ngũ, lãnh Suất đội. Năm 1845 ông làm Chánh quản cơ nên còn được gọi là Quản cơ Thành. Năm 1867, Pháp chiếm thành Châu Đốc. Không khuất phục giặc, ông kéo lực lượng dân binh về Bảy Thưa xây dựng căn cứ, phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực kháng Pháp trong vùng Long Xuyên, Rạch Giá.

Sau khi Nguyễn Trung Trực bị Pháp xử tử (1868), Trần Văn Thành quy tụ nghĩa quân khắp Miền Tây về Láng Linh xây dựng đồn lũy, rèn đao, đúc kiếm, đánh phá đồn bót giặc .... Quân Pháp nhiều lần đánh vào Láng Linh-Bảy Thưa nhưng không đạt kết quả. Đầu năm 1873, Pháp cho người mang thư đến mua chuộc ông quy thuận. Ông cương quyết bất hợp tác qua câu thơ khảng khái được truyền tụng trong dân gian: "Thà thua xuống láng, xuống bưng. Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần".

Không mua chuộc được Ông, Pháp huy động lực lượng lính mã tà của Long Xuyên, Cần Thơ, Châu Đốc tấn công vào vùng Châu phú. Từ ngày 19 đến ngày 20-3-1873 Trần Văn Thành trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chống giặc và hy sinh anh dũng trước mũi súng của kẻ thù. Con trai út của Ông là Trần Văn Chái bị giặc bắt, sau đó tuẫn tiết trong khám Châu Đốc.

Nhân dân thương tiếc tôn gọi Ông là Đức Cố Quản, lập đền thờ ở Láng Linh (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, Huyện Châu Phú, An Giang). Nho sĩ Cao Văn Cảo người cùng thời có thơ ca ngợi Trần Văn Thành:

Non sông Hồng Lạc giặc xâm lăng

Thẳng thắn Trần Công cố sức ngăn

Trời đất biết cho lòng sốt sắng

Kiếp đời ghi mãi chí thù hằn

Đền thờ tỏ dấu dân trong nước

Thơ vịnh nêu tình khách viết văn

Những đứa phản thần ra đến cửa

Gục đầu, rung mật, cặp mày nhăn

Trong kháng chiến chống pháp, đền thờ là cơ sở cách mạng của xã Thạnh Mỹ Tây. Và đương nhiên nó không tránh khỏi sự tàn phá của quân thù. Nhân dân đã cùng nhau trùng tu lại đền thờ. Ngày 12-12-1986, Bộ Văn hóa ra quyết định số 235/ VH-QĐ công nhận đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành là di tích lịch sử cấp Quốc gia.

An Giang chúng ta rất tự hào về hai vị anh hùng chống giặc ngoại xâm. Một là Trần Văn Thành là người anh hùng đầu tiên khi các cuộc khởi nghĩa chống Pháp còn mang tính vũ trang lẻ tẻ; hai là Bác Tôn Đức Thắng hoạt động chống giặc khi cách mạng nước ta đã có đường lối rõ ràng. Trần Văn Thành là một tấm gương anh dũng, đã thể hiện được tinh thần bất khuất của dân tộc ta mà cụ thể là của người dân An Giang. Các cuộc khởi nghĩa của ông tuy thất bại nhưng cũng đã thôi thúc tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời điểm bấy giờ. Và ngày nay tấm gương đó vẫn sáng ngời cho con cháu noi theo.

Trần Văn Thành (?  - 1873) còn được gọi là Trần Vạn Thành (theo triều Nguyễn), Quản Cơ Thành (khi làm Chánh Quản cơ), Đức Cố Quản (tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương gọi tôn). Ông là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873) trong lịch sử Việt Nam.


Thân thế và sự nghiệp

Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông ở ấp Bình Phú (Cồn Nhỏ), làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, huyện Đông Xuyên, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang).

Ông trưởng thành và hoạt động dưới triều đại Thiệu Trị và Tự Đức, từ khoảng năm 1841 đến 1873.
Thời loạn đầu quân giúp nước

Năm 1840, Trần Văn Thành gia nhập quân đội nhà Nguyễn giữa lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên, nhờ có Xiêm La giúp sức, đã khởi quân chống lại cuộc bảo hộ của Việt Nam.

Nhờ có sức khỏe, giỏi võ nghệ, khá thông thạo chữ nghĩa, nên ông được cử làm suất đội (chỉ huy khoảng 50 lính), từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia).

Dưới thời Thiệu Trị, ông từng đem quân đánh dẹp phe nổi dậy ở Láng Cháy (Tri Tôn). Năm 1845, sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam.

Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục nhà Nguyễn. Cuối năm Đinh Mùi (1847), xét thấy tình hình biên giới Tây Nam đã ổn định, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", triều đình cho giải ngũ một số binh sĩ, trong đó có cơ biền của Trần Văn Thành. Trước khi về lại quê nhà, ông được ban thưởng nhiều phẩm vật cùng một tờ chiếu khen là “Quản cơ tinh binh”.
Giải ngũ về quê góp phần khẩn hoang, tu học

Giải ngũ, Trần Văn Thành cùng gia đình đến cư ngụ tại khu vực chùa Huê Viên (còn gọi là chùa Vườn Bông, nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân).

Năm 1849, Trần Văn Thành gia nhập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Đoàn Minh Huyên (Phật Thầy Tây An) sáng lập năm 1849.

Từ 1851, khi Đoàn Minh Huyên bị bắt buộc phải đến tu tại chùa Tây An (Châu Đốc), nghe lời thầy, ông mang vợ con rời Cồn Nhỏ (Bình Thạnh Đông) đến vùng Nhà Bàng sau này, rồi đến Láng Linh (Châu Phú) lập trại ruộng để lo việc khẩn hoang.
Nước nhà bị ngoại xâm, trở lại quân ngũ

Tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, sau đó quân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vua Tự Đức liền ra lời kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp tác chống ngăn quân xâm lược. Hưởng ứng lệnh vua, Trần Văn Thành trở lại đội ngũ.

Sau khi đi Pháp chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ thất bại, năm 1865, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Do sức ép của Pháp, triều đình lệnh cho ông Giản phải lùng bắt Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên hộ Dương), và ông Giản đã phái Trần Văn Thành thực hiện nhiệm vụ này, nhưng ông chỉ làm cho lấy có.

Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, một đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng, tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867.

Để cứu nguy nước nhà, Trần Văn Thành tự tổ chức dân binh đắp cản ở quê nhà (Cồn Nhỏ) để ngăn quân Pháp, đồng thời mang quân qua phía Rạch Giá, hỗ trợ cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Lập tức, Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng bào Núi Sập tiếp tay) đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh lỵ Rạch Giá.

Ngoài ra, ông còn can dự vào việc giết viên Chủ tỉnh Vĩnh Long là Salicetti ở Vũng Liêm.

Cuộc cản phá thất bại, Nguyễn Trung Trực bị đánh thua rút quân ra Hòn Chông (nay thuộc Kiên Lương), còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh dựng trại, khẩn hoang làm ruộng, luyện quân và rèn đúc vũ khí...để chuẩn bị làm cuộc đánh đuổi ngoại xâm
Tổ chức kháng Pháp ở Láng Linh

    Bài chính: Khởi nghĩa Bảy Thưa

Láng Linh một cánh đồng rộng trũng phèn rộng bao la, thời nhà Nguyễn, đất này thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (nay nằm trên địa bàn các xã Thạnh Mỹ Tây, Đào Hữu Cảnh, Bình Phú (nay đều thuộc huyện Châu Phú tỉnh An Giang). Xưa kia, nơi đây có nhiều đầm lầy, đế sậy và vô số cây thưa (vì thế mà thành tên cuộc khởi nghĩa), lại ít có kênh rạch thông vào...

Theo lời kể của nhân dân và tư liệu cũ thì căn cứ chính của khởi nghĩa Bảy Thưa là Hưng Trung doanh (nay thuộc ấp Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú). Xung quanh có các đồn làm tuyến ngăn cản đối phương, như: đồn Cái Môn, đồn Lương (đều thuộc Thạnh Mỹ Tây), đồn Giồng Nghệ (Vĩnh Hanh, (Châu Thành), trạm canh Ông Tà (Tà Đảnh, Tri Tôn), đồn Hờ ở vàm rạch Cái Dầu (Châu Phú), v.v... (xem thêm bản đồ chiến khu Bảy Thưa). Mỗi đồn đều được trang bị súng thần công, súng điểu thương, hỏa hổ,... với khoảng 150 nghĩa quân phòng thủ.

Trần Văn Thành phất cờ chống Pháp vào khoảng tháng 8 năm 1867, và lấy tên Binh Gia Nghị đặt cho đội quân của mình.

Theo tờ trình của Pháp năm 1870, thì lúc bấy giờ lực lượng của Trần Văn Thành có khoảng 1.200 nghĩa quân, bao gồm một số quân triều và nghĩa dân (trong đó phần đông là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương). Để củng cố thêm thế lực, Trần Văn Thành cho người đến liên hệ với Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp ở Campuchia, nhưng vì ông này cũng đang gặp khó khăn nên việc liên kết không mấy hiệu quả. Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm La và Cao Miên để mua súng đạn, nhưng không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào việc Nam Kỳ e mất lòng Pháp.

Cuối năm 1868, các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần hết, lực lượng Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã, treo giải thưởng cao.
Bị tấn công và mất

Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào Bảy Thưa, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích.

Sang năm 1872, nhờ lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được, thực dân quyết định mở cuộc càn quét lớn vào Bảy Thưa. Tuy nhiên mãi cho đến năm sau, họ mới phát lệnh hành quân.

Bắt đầu từ tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp cho quân đánh phá đồn Hờ ở rạch Cái Dầu (thuộc Châu Phú), và uy hiếp đồn Nghệ (thuộc xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, An Giang) rồi kéo dần vào rừng. Họ nã đại bác vào phía trước và cho dân dọn đường phía sau. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa lui dần. Quân Pháp không tiến mau được vì ngột nắng và sợ đĩa. Ngày 19 tháng 3, hải quân Pháp từ Châu Đốc tiến vào đánh đồn Cái Môn (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú). Tuy có hào sâu nhưng vì súng của nghĩa quân bắn không được xa, phát nổ phát không, nên chẳng bao lâu quân Pháp tràn vào được trong đồn. Cùng ngày ấy, tàu chiến Pháp đâu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang), ngoài sông Hậu, rồi cho quân  dùng xuồng nhỏ vào ngọn rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang) để tiến tới ngọn Hang Tra là nơi Trần Văn Thành đang chỉ huy chiến cuộc.

Biết mình đang bị bao vây, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu, nhưng Trần Văn Thành và nghĩa quân vẫn cương quyết đối phó.

Theo Sơn Nam, khoảng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873 (21 tháng 2 năm Quý Dậu), quân Pháp bắt đầu xung phong đánh chiếm Hưng Trung doanh. Báo Le Courrier de Saigon ra ngày 5 tháng 4 năm 1873 tường thuật:

    Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"...

Nhà văn Sơn Nam kể:

    Ông Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất. Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ. Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ...Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Thành mặc áo màu đo sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên ạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng...

Trước hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, dù cố gắng chống trả nhưng chỉ vài giờ sau thì quân Bảy Thưa cũng bị đánh tan. Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này, bên nghĩa quân có 10 người chết, 5 người bị thương, 15 người bị bắt sống. Ngoài ra, họ còn bị đối phương chiếm đoạt 16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo cùng ghe xuồng, một số giấy tờ cho thấy ông Thành từng ở Rạch Giá với Nguyễn Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh Vĩnh Long) ở Vũng Liêm.

Xong trận, quân Pháp nổi lửa đốt tất cả dinh trại, phá hủy hết các lò đúc vũ khí, rồi mang xác ông Thành và Đội Văn (Pháp ghi là Vang, giữ hậu tập, tử trận trong trận Hưng Trung) về chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú) để thị uy, để ngăn chận những tin đồn cho rằng ông còn sống, chỉ tạm thời đi lánh mặt và sẽ tiếp tục kháng chiến. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam thì ông không tử trận. Sách viết: "sau khi bản doanh Hưng Trung bị tàn phá, thất bại nặng, ông rút lui vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 âm lịch năm 1873".

Về cái chết của ông, đến nay vẫn chưa được làm rõ.
Nhận xét

Nhà văn Sơn Nam viết về Trần Văn Thành và cuộc khởi nghĩa của ông như sau:

    Trần Văn Thành từng tham gia những trận chống quân xâm lược Xiêm, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức, thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên, bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến...

    Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ngay sau khi An Giang mất, ông đưa nghĩa dân và nghĩa quân qua phía Rạch Giá, tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, và ông trở thành nhân vật mà thực dân Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng. Sau đó, ông rút lui về Láng Linh để khẩn hoang. Có thể nói, ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc canh tác ở vùng trũng phèn này. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873, mật khu lần hồi thành hình...Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông người yêu nước từ các tỉnh.

    Khi đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh giá cao, vì:
    -Việc tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu “ống lói”.
    -Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân Pháp.
    -Thủ lĩnh (Trần Văn Thành) thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra “bất chiến tự nhiên thành”. Thái độ của thủ lĩnh và nghĩa quân là “chiến đấu không thỏa hiệp”.

Tưởng nhớ
Súng của nghĩa quân Bảy Thưa, hiện trưng bày tại Bảo tàng An Giang

Nho sĩ Cao Văn Cảo, người cùng thời, có làm bài thơ chữ Hán tưởng niệm ông. Vô danh dịch như sau:

    Non sông Hồng Lạc, giặc xâm lăng
    Thẳng thắng, Trần công cố sức ngăn.
    Trời đất biết cho lòng sốt sắng,
    Kiếp đời ghi mãi chí thù hằn.
    Đền thờ tỏ dấu dân trong nước,
    Thơ vịnh nêu tình khách viết văn.
    Những đứa phản thần qua đến cửa,
    Gục đầu, run mật, cặp mày nhăn.

Năm 1909, một tu sĩ trong giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tên là Vương Thông có viết tập thơ Nôm thể lục bát có tên là "Trần Quản Cơ dữ Gia Nghị Binh", kể về khởi nghĩa Bảy Thưa, trong đó có nhiều câu nói đến tinh thần “an bần, lạc đạo”, lòng quả cảm và tiết tháo của ông, trích hai đoạn ngắn:

    Thân ngài (Trần Văn Thành) chẳng quản rách lành,
    Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời.
    Người trung đứng giữa mặt trời,
    Đắng cay bao quản vận thời chớ than.
    Trích cò le át la vang,
    Đậu khoai nuôi bữa bắp rang đỡ lòng...

Và:

    An Giang có một ông (Trần Văn Thành) đây
    Chữ dạ ngay thầy ái quốc ưu dân.
    Thà thua xuống láng xuống bưng,
    Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần...

Trần Văn Thành được tôn thờ ở nhiều nơi, như: Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành, Dinh Hưng Trung, Dinh Sơn Trung...Ngoài ra, tên ông còn dùng để đặt tên cho trường học và đường phố trong tỉnh An Giang.
Vợ, con

Nguyễn Thị Thạnh (1825-1899), vợ Quản Cơ Thành, là người ở rạch Sa Nhiên, thôn Tân Quy Đông, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang (nay là phường Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc). Bà là người vợ nhân hậu, đảm đang, văn võ đều khá giỏi. Trong công cuộc kháng Pháp của chồng, ngoài việc lo cơm nước, thuốc men và động viên binh sĩ; bà còn cùng với hai người con gái là Trần Thị Hè và Trần Thị Nên đi vận động mọi người đóng góp tiền của lương thực, tham gia đào kênh (kênh Bà Dâu), khẩn ruộng, trồng dâu nuôi tằm dệt vải,...tạo nguồn vật dụng và lương thực cho căn cứ.

Ông Thành và bà có tất cả 6 người con: ba trai, ba gái, theo thứ tự sau: Trần Văn Nhu, Trần Thị Hè, Trần Văn Chái, Trần Thị Nên, Trần Thị Núi và Trần Văn Trạng. Trừ trai út mất năm 7 tuổi, hai trai còn lại đều khá danh tiếng:

    Trần Văn Nhu (1847-1914), còn gọi là Cậu hai nhà Láng (người miền Nam gọi con đầu lòng là thứ hai), người lập ra Bửu Hương tự (tức chùa Láng) và cũng là người kế truyền mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương sau khi cha mất. Lúc khởi nghĩa Bảy Thưa bị đánh dẹp (1873), mẹ ông cùng ông và những người thân tín khác, bị Pháp truy nã rất gắt nên phải lẩn trốn nhiều nơi. Năm 1897, ông Nhu trở về căn cứ cũ lập Bửu Hương tự (nay là Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành), phát “lòng phái” để thu nhận tín đồ. Ông Nhu mất tại Trà Bang (Rạch Giá) ngày 25 tháng 3 âm lịch năm 1914.

    Trần Văn Chái (1855-1873), bị thương ở bắp đùi rồi bị quân Pháp bắt khi cùng chiến đấu với cha tại bản doanh Hưng Trung. Sợ con không thể chịu nổi sự tra tấn của đối phương sẽ khai báo bí mật của nghĩa quân, bà Thạnh (vợ Quản Cơ Thành) liền nhờ người đưa thư khuyên con nên tự vẫn để tròn khí tiết.

Không rõ Trần Văn Thành và Trần Văn Chái được chôn cất ở đâu. Trong khu mộ của dòng họ Trần ở gần chùa Bửu Hương tự thuộc xã Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), không có phần mộ của hai người.
Thông tin liên quan

Trong phát biểu bế mạc Hội thảo cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa và lễ hội văn hóa truyền thống huyện Châu Phú ngày 9 tháng 12 năm 2009, có một vài tồn nghi đã được giải đáp như:

    - Trần Văn Thành và Trịnh Quang Nghị là hai người khác nhau. Ông Nghị là cậu ruột danh sĩ Nguyễn Thông, và là thuộc tướng của Tán lý Nguyễn Duy. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (ngày 24 tháng 2 năm 1861), ông này cùng Phan Văn Đạt khởi nghĩa ở vùng Vàm Cỏ.
    -Dinh Hưng Trung là nơi đặt bản doanh của Khởi nghĩa Bảy Thưa, nay là khu vực Cốc Ông Đạo Cậy tọa lạc (thuộc ấp Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú), không phải là nơi Dinh Sơn Trung do giáo phái Nguyễn Long Châu xây cất năm 1947, hiện đang tọa lạc tại xã Vĩnh An, huyện Châu Thành, An Giang.

Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn nghi chưa giải quyết được, như cần làm rõ thêm về cái chết của Quản Cơ Thành, về ngôi mộ ở rạch Thủ Điềm (thị xã Sa Đéc) được cho là của ông, về địa danh Bảy Thưa hay Bãi Thưa, v.v....

0 Bình luận

Gửi bình luận:

Click here to cancel reply
Họ và tên
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Thư điện tử
Tỉnh thành