Số người đang online : 16 Nguyễn Hữu Thận - Danh thắng - danh nhân, văn hóa - ẩm thực Việt Nam

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

Nguyễn Hữu Thận
post image
Nguyễn Hữu Thận

Nguyễn Hữu Thận (Đinh Sửu 1757-Tân Mão 1831)

Nhà toán học, danh sĩ thời Nguyễn sơ, tự Chân Nguyên, hiệu Ý Trai (có sách ghi là Ức Trai). Quê làng Đại Hòa, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Ông say mê toán học từ thuở trẻ, hằng chuyên tâm nghiên cứu về môn học này. Khoảng năm Bính Ngọ 1786, ông ra giúp nhà Tây Sơn, thăng đến chức Hữu thị lang bộ Hộ.

Năm Nhâm Tuất 1802 ông phải ra làm việc với triều đại mới – Gia Long. Buổi đầu ông làm Chế cáo ở Viện Hàn Lâm, rồi làm Thiêm sự ở bộ Lại. Ít lâu vào làm Cai bạ ở Quảng Nghĩa.

Năm Kỉ Tị 1809 ông về triều nhậm chức Hữu tham tri bộ Lại, vài tháng sau được cử làm Chánh sứ cùng với hai Phó sứ Lê Đắc Tần và Ngô Thì Vị sang Trung Quốc. Thời gian ở Bắc Kinh ông lưu tâm tìm mua nhiều sách quý về lịch số và toán học.

Đi sứ về (tháng 5-1811) ông chuyển qua làm Hữu tham tri bộ Hộ. Năm 1812, ông làm phó quản lí Khâm thiên giám, sau đó triều đình điều ông ra làm Hộ tào Bắc Thành, ít lâu lại trở về triều làm Thương thư bộ Lại.

Năm 1820, ông đổi làm Thượng thư bộ Hộ, trông coi việc ở Khâm thiên giám. Thời gian này ông gia công biên soạn các sách về tuổi, lịch số và toán học.

Ngày 12-8-1891 (5-7 Tâm Mão) ông mất, thọ 74 tuổi. Các tác phẩm chính của ông:

Ý trai toán pháp nhất đắc lực (Một điều tâm đắc về toán pháp của Ý Trai)

Tam thiên tự lịch đại văn chú (Ba nghìn chữ chú giải văn chương các đời – dịch sách Trung Quốc).

Bách ti chức chế (nói về nhiệm vụ và thể chế các ti các sở của triều Nguyễn biên tập chung với nhiều người).

Nguyễn Hữu Thận (1757-1831), tự Chân Nguyên, hiệu Ý Trai (hoặc Ức Trai); là nhà toán học, và là đại thần trải hai triều: nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.


Thân thế và sự nghiệp

Theo Phổ hệ họ Nguyễn Hữu (trước là Nguyễn Phú), Nguyễn Hữu Thận sinh vào tháng 3 năm Đinh Sửu (tức tháng 4 năm 1757, đời chúa Nguyễn Phúc Khoát) tại làng Đại Hòa, tổng An Dã, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay thuộc xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).

Cha ông là Nguyễn Phú Điêu, làm Huấn đạo (chức quan phụ trách việc học hành ở cấp huyện) nhà Hậu Lê, nhưng lại là người thích nghiên cứu về lịch. Sau, niềm mê say này được truyền sang Nguyễn Hữu Thận.

Tháng 5 (âm lịch) năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Huệ chỉ huy, đánh đuổi quân Trịnh ra khỏi Phú Xuân. Sau đó, Nguyễn Hữu Thận ra làm quan cho nhà Tây Sơn, rồi được cử vào Quy Nhơn. Làm quan ở đó được 9 năm, ông được triệu về làm ở Phú Xuân, dần thăng lên chức Hữu thị lang bộ Hộ.

Tháng 5 (âm lịch) năm Tân Dậu (1801), chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau lên ngôi là Gia Long) mang binh thuyền đánh chiếm Phú Xuân. Cũng như nhiều viên khác của triều Tây Sơn, ông phải ra "hiệu thuận", tức là thuận theo triều đại mới và làm việc hết sức để chuộc lỗi. Ban đầu được bổ làm Chế cáo ở Viện Hàn lâm, rồi Thiêm sự ở bộ Lại và Cai bạ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi ngày nay).

Đầu năm Kỷ Tỵ (1809), ông được điều động về kinh làm Tham tri bộ Lại. Tháng 3 (âm lịch) năm đó, ông được cử làm Chánh sứ để cùng với hai Phó sứ là Lê Đắc Tân và Ngô Thì Vị sang Thanh (Trung Quốc) dâng hai lễ cống của năm Đinh Mão (1807) và năm Kỷ Tỵ (1809). Thời gian ở Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay), ông chịu khó học hỏi và tìm mua được nhiều sách quý về lịch số và toán học.

Tháng 4 (âm lịch) năm Canh Ngọ (1810), ông trở về nước, dâng lên vua Gia Long quyển Đại lịch tượng khảo thành thơ do ông tìm được ở Trung Quốc và tấu rằng: "Lịch vạn toàn nước ta và sách Đại Thanh thời hiến bên Tàu, đều theo lịch Đại Thống nhà Minh, hơn 300 năm chưa hề sửa lại, càng lâu lại càng sai lắm. Đời Khương Hy nước Tàu, mới tham dùng phép lịch Thái Tây, làm ra quyển lịch này, mà sách này suy xét góc độ số tinh tường hơn sách Đại Thống, phép tam tuyến bát giác lại tinh xảo lắm. Xin giao học trò Khâm thiên giám theo lịch này để khảo cứu làm phép lịch, thời biết đúng độ số trời mà nhằm tiết hậu". Ngài (vua Gia Long) cho là phải. Sau đó, ông được chuyển qua làm Tham tri bộ Hộ.

Tháng Giêng năm Nhâm Thân (1812), cho ông kiêm quản việc tòa Khâm thiên giám. Năm Bính Tý 1816, ông được điều ông ra làm Hộ tào Bắc Thành, ít lâu lại trở về triều làm Thượng thư bộ Lại, nên được người dân gọi là "ông Thượng Đại Hòa".

Năm Canh Thìn (1820), Minh Mạng lên ngôi, đổi ông làm Thượng thư bộ Hộ. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua sai ông lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử. Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ liền được ông cử lên và được dùng.

Năm Nhâm Ngọ (1822), lại cho ông kiêm quản Khâm thiên giám, và làm chủ nhiệm sách Vạn niên thư theo cách thức của triều Thanh.

Ngày 5 tháng 7 (âm lịch) năm Tân Mão (12 tháng 8 năm 1831), Nguyễn Hữu Thận mất, thọ 74 tuổi.
Tác phẩm

Tác phẩm chính của ông:

    Ý Trai toán pháp nhất đắc lục (Một điều tâm đắc về toán pháp của Ý Trai, gồm 8 quyển)
    Bách ty chức chế (nói về nhiệm vụ và thể chế các ty các sở của triều Nguyễn) biên tập chung với nhiều người.

Ngoài ra ông còn dịch Tam thiên tự lịch đại văn chú (Ba nghìn chữ chú giải văn chương các đời) của Trung Quốc.
Khen ngợi, ghi công

Sử nhà Nguyễn là Quốc triều sử toát yếu đã khen ông rằng:

    (Nguyễn Hữu) Thận tinh thiên văn và lịch học, lúc sang sứ Tàu, học được phép làm lịch lại càng thêm tinh. Ngài (Gia Long) thường bàn thiên văn với Thận, khen lắm.

Ghi nhận công lao Nguyễn Hữu Thận, tên ông được dùng để đặt tên một con đường ở quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; và một trường Trung học phổ thông ở xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

0 Bình luận

Gửi bình luận:

Click here to cancel reply
Họ và tên
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Thư điện tử
Tỉnh thành