Số người đang online : 76 Lê Duẩn - Danh thắng - danh nhân, văn hóa - ẩm thực Việt Nam

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

Lê Duẩn
post image
Lê Duẩn

Lê Duẩn (1907 - 1986) Lê Duẩn (1907 - 1986), nhà hoạt động xuất sắc của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam; chiến sĩ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc. Quê làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Tham gia phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu (1925) và các hoạt động yêu nước những năm 1926 - 27. Gia nhập Đảng Tân Việt (1928), Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hà Nội (1929). Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) và hoạt động tại Hà Nội. Tháng 4.1931 bị Pháp bắt, kết án 20 năm tù cầm cố, giam ở các nhà tù Hoả Lò, Sơn La. Năm 1933, bị đày ra Côn Đảo. Cuối 1936, được trả lại tự do, hoạt động cách mạng ở Quảng Trị. Cuối 1937, làm bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ. Uỷ viên Trung ương Đảng (1939). Tham dự Hội nghị VI Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11.1939). Bị Pháp bắt lại (1940) và đày ra Côn Đảo. Tháng 8.1945, trở về hoạt động ở Nam Bộ. Đầu 1946, được điều ra Trung ương. Cuối 1946, trở lại Nam Bộ. Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ (1947 - 51). Bí thư Trung ương Cục Miền Nam (1951), uỷ viên Bộ Chính trị (liên tục từ 2. 1951). Sau 1954, ở lại Nam Bộ để lãnh đạo cách mạng, trực tiếp dự thảo "Đề cương cách mạng Miền Nam" (1956). Từ 2.1957, được uỷ nhiệm lãnh đạo công việc chung của Đảng bên cạnh Hồ Chủ Tịch. Từ 1960, uỷ viên Bộ Chính trị, bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Từ 12.1976, tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá IV, V). Đại biểu Quốc hội (khoá II - VII).

Tác phẩm chính: "Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam" (1965), "Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa" (1966), "Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới" (1970), "Tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta" (1976), "Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" (1976), "Thư vào Nam" (1985), "Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam" (1985).

Được tặng thưởng huân chương Sao vàng, giải thưởng "Vì sự nghiệp củng cố hoà bình giữa các dân tộc" của Uỷ ban Giải thưởng quốc tế Lênin và nhiều huân chương của Liên Xô, Lào, Cămpuchia, Ba Lan, Bungari, Cuba, Cộng hoà Dân chủ Đức, Hungari, Mông Cổ, Tiệp Khắc.

Cuộc đời hoạt động của Lê Duẩn gắn liền với quá trình Cách mạng Việt Nam từ những năm 20 đến những năm 80 thế kỉ 20, trên khắp các miền của đất nước, trải qua nhiều thử thách, và đã có những đóng góp quan trọng vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến tới những thắng lợi vĩ đại.

Lê Duẩn (1907–1986) là Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1960 đến 1976, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ông là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam có tổng thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày. Từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại Bắc Việt và ở Việt Nam sau 1975, khi hai miền thống nhất[1] ông cũng đã xác lập quyền uy tối thượng của mình tại Việt Nam trong những năm tháng còn tại vị.

Lê Duẩn chính là người đã vạch ra chiến lược cách mạng ở miền Nam Việt Nam với tác phẩm trứ danh Đề cương cách mạng miền Nam. Từ bản đề cương này, hàng loạt phong trào bạo động ở miền Nam nổ ra dọn đường cho quân đội Bắc Việt tấn công và đánh chiếm Sài Gòn vào năm 1975 kết thúc Chiến tranh Việt Nam.


Cuộc đời và sự nghiệp

Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Sau đó ông theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành.

Tháng 5 năm 1926, ông làm ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng.

Năm 1927, nhân viên thư ký đề pô Sở Hỏa xa Đông Dương tại Hà Nội.

Năm 1928, ông tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng.

Năm 1929, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.

Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1931, ông là Ủy viên Ban tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ.

Ngày 20 tháng 4 năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo.

Năm 1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ. Năm 1937, làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.

Năm 1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6.

Năm 1940, bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về đất liền.

Năm 1946, ông được cử làm việc bên cạnh Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.

Từ 1946 đến 1954, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau đổi thành Trung ương Cục miền Nam). Chức vụ chính quyền của ông chỉ là Trưởng phòng dân quân, trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ do Nguyễn Bình làm Tư lệnh.

Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Năm 1952 ông ra Việt Bắc họp Trung ương và được Hồ Chí Minh giữ lại làm phụ tá đến đầu năm 1954.

Từ 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo cách mạng miền Nam.

Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.

Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.

Tại các Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và lần thứ V (3/1982), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.

Từ Đại hội V do sức khỏe yếu, Trung ương Đảng giao bớt một số quyền của ông cho Trường Chinh.

Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII.

Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác.

Ông qua đời ngày 10 tháng 7 năm 1986 tại Hà Nội.
Đánh giá

Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo đảng và các học giả trong nước đóng góp nổi bật của ông là năm 1939, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, ông đã góp phần cho sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương (11-1939) - chuyển hướng đấu tranh cách mạng; chỉ đạo kháng Pháp tại miền nam trong đó đáng chú ý là "Xứ ủy Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn thực hiện chính sách ruộng đất “người nông dân có ruộng cày” không phải thông qua cuộc phát động tước đoạt bằng bạo lực, tiến hành đấu tố, cưỡng bức địa chủ; mà bằng chủ trương và biện pháp đúng đắn, thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Nam Bộ lúc ấy" [4], đặc biệt vai trò lớn của ông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Chính ông là người viết "Đề cương cách mạng Miền Nam' (sau được thể hiện đầy đủ trong Nghị quyết 15 (Khóa Hai) của đảng tháng 1-1959). Theo ông Võ Văn Kiệt: "Đề cương Cách mạng miền Nam” được đồng chí Lê Duẩn hoàn thành vào tháng 8 năm 1956 ngay tại Sài Gòn, ở số nhà 29 đường Huỳnh Khương Ninh, quận 1 Sài Gòn, nay là Tp. HCM." [5]. Ý kiến chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam coi Lê Duẩn có tầm nhìn chiến lược, có đóng góp nhiều cho đường lối chính trị quân sự của Đảng, nhất là trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 [6][7]

Cùng với quân sự là ngoại giao, ông rất chú ý đàm phán Paris. Ông có nói với ông Lê Đức Thọ rằng: "Anh sang bên đó, một điều không được thay đổi là Mỹ rút và mình không rút". [8][9]

Theo lời kể của con trai Lê Duẩn, Hồ Chủ tịch đã chọn ông là người lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở miền Nam, vì ông là người vừa nắm rõ đường lối của Trung ương vừa có trình độ lý luận, hiểu chủ nghĩa Mác. Chiến trường Nam bộ ngày ấy vừa xa xôi vừa phức tạp, để có một sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương, phải cần một người am hiểu cả địa thế lẫn lòng dân. Vì vậy năm 1957, Hồ Chủ tịch đã gọi ông ra Hà Nội gấp và nhanh nhất có thể để trực tiếp giúp điều hành công việc chung của Đảng.[10]

Trong thời gian ông nắm quyền cao nhất Việt Nam từ năm 1975 đã xảy ra hai cuộc chiến tranh: Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc. Ông đã lãnh đạo đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn này, thành công trong việc tiêu diệt Khmer Đỏ ở Tây Nam và ngăn chặn được quân Trung Quốc ở phía bắc.

Tuy nhiên bên cạnh những thành công về quốc phòng, Ban Chấp hành TW do ông đứng đầu đã đề ra các đường lối sai lầm về kinh tế, và hậu quả của các cuộc chiến tranh khiến kinh tế lâm vào khủng hoảng, Việt Nam bị cô lập trong suốt giai đoạn 1976-1986.
Nhận xét


Theo Giáo sư Tương Lai trích lại lời Giáo sư Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ: “Năm 1985, anh là người ghi vào Nghị quyết của Bộ Chính trị: "Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần”. Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI Đổi Mới... Tầm nhìn xa của anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh lát cho con đường đổi mới, không nhiều người biết tới. Nhưng điều đó cũng phù hợp với con người Anh. Chỉ cần mình làm điều tốt cho Đảng, cho dân mà không cần nghĩ rằng có được ghi nhận hay không”. Theo GS Tương Lai: "Đáng tiếc là, những tư tưởng lóe sáng trong tư duy của nhà lý luận ấy đã bị chìm đi trong vô vàn những bức xúc hàng ngày của thực trạng kinh tế đang trong cái thế giằng co giữa cái cũ và cái mới. Ông không thể không gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả nặng nề của sự vận dụng những công thức giáo điều trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu Stalin hoặc của tư tưởng giáo điều “tả” khuynh khác, mặc dầu ông đã cố gắng để vượt ra khỏi những áp đặt".[14]

Giáo sư Trần Phương có thuật lại: "Tôi nhớ có lần, vào một buổi sáng, khi nhóm trợ lý chúng tôi đang họp, anh Ba đi vào “quẳng” xuống bàn chúng tôi một tờ báo và nói: “Các anh đọc đi!”. Rồi anh nhếch mép cười, đi ra... Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên trang nhất là một bài dài phê phán anh Kim Ngọc và quan điểm khoán hộ của anh. Có lần, tôi hỏi Anh: “Tại sao Anh không công khai phản bác lại quan điểm bảo thủ của bài báo...”. Anh nói: “Quan trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng...”. Ông Trần Phương cũng cho rằng: "Ai đó đã nói rằng anh Ba không bảo vệ được Kim Ngọc là không đúng. Sau bài báo đó, Kim Ngọc vẫn là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú".".[15]. Theo những người trợ lý thân cận nhất của ông kể lại thì thái độ của ông đối với khoán ở Vĩnh Phúc (1966-1968) khác với nhiều người lúc đó. Nhưng ông chưa kịp can thiệp thì đã có lệnh đình chỉ, mà đã có lệnh rồi thì không thể đảo ngược lại được. Ông Đậu Ngọc Xuân là trợ lý của ông kể lại: Khi khoán Vĩnh Phúc đã bị đình chỉ, ông chỉ còn biết lên thăm Kim Ngọc và bày tỏ sự đồng tình với những tìm tòi của Kim Ngọc, an ủi về việc những sáng kiến quá mới như thế thường không dễ đi ngay vào cuộc sống...[16]

Theo lời của Trần Phương, Lê Duẩn từng nói với ông: "Cầm quyền mà không lo nổi cho dân một bộ quần áo thì cầm quyền là nghĩa thế nào? Anh muốn làm gì thì làm nhưng phải lo đủ cho người dân một bộ quần áo... Tôi vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đã nổi nóng với Chính phủ: “Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước lã cho dân thì nên từ chức đi...”. Anh Tô (Phạm Văn Đồng) không nói một lời. Tôi rất thông cảm với Anh về cái khó của Chính phủ. Muốn có rau muống thì phải có gạo. Muốn có nước lã (nước máy) thì phải có ngoại tệ. Cả hai thứ đó, Chính phủ đều gặp khó khăn".[15]

David Elliott, trong quyển sách The Vietnamese War (2003), phê bình chính sách kinh tế của những người cộng sản giai đoạn 1976-1986, mà đứng đầu là Lê Duẩn, ông cho rằng họ “thường là những người cứng rắn, giáo điều và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào cũng là những người đủ khả năng đưa VN đi tiếp trên đường phát triển.”[17]

Khi ông mất, Tổng Thư ký Liên hiệp quốc khi đó đã điện "... Ngài Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã giữ một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử của Việt Nam...”. (Điện của Tổng Thư ký liên hiệp quốc Javier Pérez de Cuéllar (Báo Nhân Dân ngày 16.7.1986)).[18]
Gia đình

Ông có hai người vợ:

    Bà Lê Thị Sương (25 tháng 12 năm 1910 - 6 tháng 8 năm 2008)[19] kết hôn năm 1929 ở quê. Có bốn người con:
        Lê Hãn (sinh 1929), tên thường dùng là Lê Thạch Hãn, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý các nhà trường Quân đội, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nghỉ hưu; Ông Lê Hãn cưới bà Nguyễn Khánh Nam (con gái đầu lòng của ông Nguyễn Khánh Mỹ, Vụ trưởng Vụ khu vực I, phụ trách các nước XHCN, Bộ Ngoại thương lúc bấy giờ - NV) và có 3 người con:

Ông Lê Khánh Hải hiện là Thứ trưởng thường trực bộ VHTT và Du lịch,Ông Lê Khánh Hưng và Bà Lê Ngọc Hiếu

        Lê Thị Cừ;Chồng là Lê Bá Tôn (Cán bộ lãnh đạo của Bộ CN nặng).
        Lê Tuyết Hồng có chồng là Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại;
        Lê Thị Diệu Muội (1940-2008), Phó Giáo sư, Tiến sĩ sinh vật học. (trùng họ tên với bà Muội khác là bạn ông Duẩn chứ không phải con của ông ấy,như ai trước đây đã ghi nhầm. Bà này nguyên Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội khóa V, Thứ trưởng Bộ Nội thương);
    Bà Nguyễn Thụy Nga (tên thường gọi Nguyễn Thị Vân hoặc Bảy Vân)[20][21], kết hôn năm 1950 tại miền Tây Nam Bộ, do Lê Đức Thọ làm mối, Phạm Hùng làm chủ hôn. Sau 1975, bà Nga làm Phó ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy An Giang, Phó Tổng Biên tập Phụ trách Hành chánh trị sự của Báo Sài Gòn Giải phóng. Hiện bà sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Có ba người con:
        Lê Vũ Anh, kết hôn giáo sư toán học Viktor Maslov người Nga ở Moskva, mất năm 1981 do băng huyết khi sinh đứa con thứ ba (là con trai); cả 3 người con của bà sau này đều lớn lên và ăn học ở Nga, nhưng hiện tại đều làm việc tại Anh.
        Lê Kiên Thành (sinh 1955), học kỹ sư hàng không tại Liên xô, sau đó là phó tiến sĩ vật lý. Khi về nước chuyển ngành sang kinh doanh, từng là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Kỹ thương Techcombank, hiện là Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Xây dựng và phát triển đô thị; Chủ tịch HĐQT Công ty CP Chế biến Thực phẩm Thái Minh; chủ một sân gôn và là Phó Chủ tịch thường trực Hội Gôn Việt nam. Ông còn là thành viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam TP Hồ Chí Minh.
        Lê Kiên Trung (sinh 1958), Cục trưởng Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh (từ tháng 12 năm 2007). Hiện là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục An ninh II - Bộ Công an (2011).

Nhắc đến mẹ mình, ông nói: "Tôi thương mẹ tôi, vì vậy bây giờ ở Hà Nội ngày nào tôi cũng ăn thêm vài củ khoai lang để nhớ mẹ tôi…"

0 Bình luận

Gửi bình luận:

Click here to cancel reply
Họ và tên
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Thư điện tử
Tỉnh thành