Trần Xuân Sọan (1849 - 1923), người tổ chức phong trào Cần vương kháng Pháp ở Thanh Hoá. Quê: làng Thọ Hạc (nay là xã Đông Thọ), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Trong thời gian đi lính, do có công lớn trong việc tiễu phỉ ở ngoài Bắc nên được thăng chức rất nhanh. Sau khi Hàm Nghi lên ngôi (1885), được điều về Huế để cùng phái kháng chiến lo giữ kinh thành. Tham gia tổ chức cuộc nổi dậy ở kinh đô Huế đêm 4 rạng 5.7.1885 và đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị. Cùng Phạm Bành, Đinh Công Tráng xây dựng cứ điểm Ba Đình (Thanh Hoá), trực tiếp chỉ huy cánh quân ở Quảng Hoá (thuộc huyện Vĩnh Lộc) để hỗ trợ các căn cứ Ba Đình và Mã Cao (Yên Định, Thanh Hoá). Cuối năm 1886, Ba Đình, Mã Cao thất thủ, ông rút quân lên Điềm Lư, châu Quan Hoá (nay là huyện Bá Thước) xây dựng lại lực lượng. Ít lâu sau, ông sang Trung Quốc gặp Tôn Thất Thuyết để bàn chuyện xin viện trợ, rồi bị mắc kẹt luôn ở đó. Mất tại Trung Quốc.
Trần Xuân Soạn là người làng Thọ Hạc (nay là phường Đông Thọ, huyện Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa .
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, tòng quân thay cho con một phú hào trong làng để lấy tiền nuôi gia đình. Trong thời gian đi lính, do có công lớn trong việc tiễu phỉ ở đất Bắc nên được thăng chức đề đốc.
Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 2 tháng 8 năm 1884, vua Hàm Nghi nối ngôi, Trần Xuân Soạn được điều về Huế để cùng phái kháng chiến lo phòng giữ kinh thành.
Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, ông cùng phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đứng đầu, lệnh cho binh sĩ đồng loạt nả đại bác vào tòa Khâm Sứ và đồn Mang Cá, là hai địa điểm đóng quân của quân Pháp. Bị đánh bất ngờ, đối phương chỉ lo cố thủ. Đến khi trời sáng, họ mới tổ chức đánh trả. Mặc dù, quân đội nhà Nguyễn chống cự quyết nhưng cuối cùng, quân Pháp cũng tiến được vào thành, rồi mặc sức cướp phá và chém giết.
Thất bại, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra sơn phòng Quảng Trị, ban dụ Cần Vương; còn Trần Xuân Soạn cùng Phạm Bành, Đinh Công Tráng đi xây dựng cứ điểm Ba Đình (Thanh Hoá), tiếp tục chỉ đạo cuộc kháng chiến. Theo sự phân công, ông đóng quân ở phủ Quảng Hóa để hỗ trợ cho căn cứ Ba Đình, và giữ mối hiện hệ giữa Ba Đình và Mã Cao.
Đầu năm 1887, Ba Đình và Mã Cao thất thủ thất thủ ông rút quân lên Điềm Lư, châu Quan Hoá (nay là huyện Bá Thước) xây dựng lại lực lượng.
Thấy Trần Xuân Soạn cứng cỏi quá, quân Pháp đào mồ lấy cốt cha ông thiêu hủy ở giữa đường, cốt để lung lạc ông ra hàng, nhưng không thành công. Ít lâu sau, ông sang Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) gặp Tôn Thất Thuyết để bàn chuyện xin viện trợ và tổ chức lại lực lượng, nhưng rồi bị mắc kẹt luôn ở bên đó.
Ở Long Châu, được sự giúp đỡ của một số sĩ phu Hoa Nam, ông đã tổ chức được mấy toán quân, và nhiều lần về hoạt động ở biên giới.
Năm Quý Hợi (1923), Trần Xuân Soạn mất tại Long Châu, thọ 74 tuổi.
Em trai ông là Trần Xuân Huấn hy sinh trong cuộc kháng chiến, và con trai ông là Trần Xuân Kháng cũng đều hy sinh vì nước.
Thơ Trần Xuân Soạn
Phiên âm Hán-Việt:
Thuật hoài
Ly hương khứ quốc thậm quai kỳ,
Nam Bắc lưỡng hồi thảo mộc tri.
Biến tính, cảm ngôn thiên quỷ quyệt,
Thu trung, tạm dĩ tỵ hiềm nghi.
Hiền thê mạc quái phu tình bạc,
Hiếu tử hưu đàm phụ đạo khuy.
Tận phó biệt hoài đông thủy khứ,
Hậu tiên lưu lạc nhất tâm tư.
Dịch nghĩa:
Tỏ chí mình
Bỏ làng xa nước thật trái với ước hẹn,
Nam Bắc hai phen đi về, cỏ cây đều biết.
Đổi họ đâu dám nói là quỷ quyệt,
Dấu tông tích để tạm tránh sự ngờ vực.
Vợ hiền chớ trách chồng là phụ bạc,
Con hiếu đừng chê cha là trái đạo.
Bao nỗi ly biệt phó cho dòng nước chảy về đông,
Trong bước lưu lạc trước sau chỉ một tấm lòng.