ĐÌNH TÂN HOA
1. Tên di tích: Đình tân hoa
2. Loại công trình: Đình
3. Loại di tích: Kiến trúc nghệ thuật.
4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số 95 ngày 24 tháng 01 năm 1998.
Share on facebook 0 người thích - Thích
ĐÌNH TÂN HOA
1. Tên di tích: Đình tân hoa
2. Loại công trình: Đình
3. Loại di tích: Kiến trúc nghệ thuật.
4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số 95 ngày 24 tháng 01 năm 1998.
5. Địa chỉ di tích: QL 80, ấp Tân Hưng, xã Tân Hoà, thành phố Vĩnh Long, VL.
6. Tóm lược thông tin về di tích
Vào khoảng giữa thế kỉ XVIII có ông Nguyễn Tự Tôn, nguyên làm quan dưới triều Nguyễn. Vì bất mãn triều đình nên từ bỏ chốn quan trường vào nam lập nghiệp. Ông đến rạch Cái Đôi nhận thấy nơi đây phong thủy tốt, cảnh vật hữu tình ông quyết định chọn nơi này tạo lập cơ nghiệp. Ông cùng gia quyến tập hợp lưu dân lập thành binh đội, tiến hành khai hoang, khẩn đất. Sau đó ông Nguyễn Tự Tôn đứng ra lập làng Tân Hoa và xây dựng đình thần với tên gọi: Đình Tân Hoa. Đình Tân Hoa được xây cất sau khi việc khai phá ấy đã hoàn thành. Ngày nay chúng ta chưa có tài liệu chứng minh niên đại xây dựng đầu tiên của ngôi đình, nhưng ngôi đình này vẫn còn lưu lại nhiều hiện vật như: Bài văn tế Thành Thần Hoàng Đại Vương, dấu ấn có từ thế kỉ thứ XIX… Đặc biệt nhất, Đình còn một biểu hiệu cổ khắc ba chữ Tân Hoa Đình theo lối triện làm trong năm Mậu Ngọ (1798), kích thước to lớn. Sau khi ông Nguyễn Tự Tôn mất, con ông là Nguyễn Văn Niệm cùng dân làng tiếp tục khai khẩn đất hoang và đến đời cháu (là ông Nguyễn Văn Bửu) làng xóm trở nên giàu có, no đủ. Lúc bấy giờ ông Nguyễn Văn Bửu đã vận động nhân dân trùng tu Đình Tân Hoa. Do những công lao ấy, Triều đình nhà Nguyễn đã tặng ông Nguyễn Văn Bửu hàm Bá hộ, được dân làng tôn là Hậu Hiền, còn ông Nguyễn Tự Tôn cũng được phong là Tiền Hiền. Cả hai được tòng sự bên Thần Hoàng Bổn Cảnh.
Vào khoảng đời vua Thiệu Trị (1841-1847) tên làng Tân Hoa do trùng tên với bà Hoàng thái hậu Hồ Thị Hoa (vợ của vua Minh Mạng, mẹ của vua Thiệu Trị) nên bị đổi thành làng Tân Hóa. Đến năm Tự Đức thứ năm ( ngày 8/1/1853) Đình làng Tân Hóa cũng như bao ngôi đình của các làng khác trong vùng đếu đồng loạt được sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng Chi Thần. Thế nhưng văn bản này không được tồn tại lâu dài, khoảng năm 1862 quân Viễn chinh Pháp đã nổ súng chiếm các tỉnh miền Đông Nam Bộ và tỉnh Vĩnh Long thì sắc thần Đình làng Tân Hoa cũng bị thiêu hủy. Do đó, khi thực hiện hiệp ước năm 1862, tỉnh Vĩnh Long được trả lại cho Triều đình Huế, chính quyền đương thời đã nhanh chóng báo cáo với Bộ Lễ đã cấp cho Đình Làng Tân Hoa một bảng sao của sắc thần này. Bảng sao của sắc thần là một tờ giấy trắng, loại giấy lệnh, viết nguyên văn đạo sắc thần dưới có dòng cữ “Lễ Bộ cung lục, Tân hoa xã tuân chiếu phụng tự”. Bên dưới chỉ đóng dấu “Lễ Bộ chi ấn”, chứ không giống các đạo sắc thần thường thấy. Đây là một việc làm nhằm mục đích tạo điều kiện bảo tồn văn hóa, mang tính chất đặc biệt.
Vào giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc, làng Tân Hóa nhập với làng Tân Hội, Tân Nhơn, lấy tên mới là Tân Hòa. Do đó năm Canh Tuất (1910) Đình Tân Hòa được trùng tu lấy tên là Tân Hòa linh miếu. Đến năm 2009 do bờ sông Cái Đôi bị sạt lỡ nên Đình được di dời về cạnh quốc lộ 80, thuộc ấp Tân Hưng, Xã Tân Hòa, Thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Hiện nay qui mô đình Tân Hoa là qui mô của đợt tái thiết này. Tất cả gồm sáu nóc, làm theo kiểu xếp đội, mang dáng dấp chung của đình làng Nam Bộ, nhưng cũng có nét riêng. Chánh điện là một ngôi nhà tứ trụ, được nới rộng ra bốn phía bằng tám kèo đấm và tám kèo quyết, còn các ngôi nhà khác như : Võ co, Võ quy, Hậu điện…đều làm theo kiểu ba gian hai chái. Nền đình xây bằng đá chẻ, lần trùng tu này đã xây tường gạch bao quanh và không dấu được dấu ấn mĩ thuật, đó là các hoa văn trên đầu cột ngoài hàng hiên phía trước. Mái đình được lợp bằng ngói âm dương nối với nhau bằng hệ thống máng xối. Các bờ nóc bờ mái được xây cao được trang trí bằng nhiều hình như: lưỡng long tranh châu, cá hóa long, phượng hàm rồng. Đáng chú ý là bộ trò bằng gỗ quí, cột đình to. Lòng căn đình rất rộng từ ba đến bốn thước. Các bộ phận chịu lực như: xuyên, trính, kèo…đều làm theo kiểu lục lăng, võ đậu, dùi ếch, nên rất cứng cáp.
Trong đình Tân Hoa còn giữ được hàng chục bộ lam, hàng chục hoành phi, câu đối rất nhiều tự khí như: lỗ bộ, lư, đỉnh, hương án, khánh thờ…đặc biệt những tác phẩm chạm trổ đều do thợ ở Tân Nhơn (xưa) thực hiện. Đáng chú ý dù qua nhiều bước thăng trầm đình vẫn còn bảo tồn được rất nhiều di vật có giá trị văn hóa lịch sử cao như: 12 bộ bao lam, 24 cặp lỗ bộ, 16 cặp liễn đối, 14 bức hoành phi cùng nhiều đồ tự khí quý hiếm khác.
Đình Tân Hoa còn một điểm rất lạ nữa đó là giữa sân đình không có đàn Thần Nông mà chỉ có một tấm bình phong đắp hình “Long hổ phụ đồ”. Còn Thần Nông được thờ ở góc bên. Tục lệ này khác hẳn với các ngôi đình ở Nam Bộ.
Hàng năm đình Tân Hoa có các ngày lễ lớn: lễ thượng điền vào ngày 11, 12 tháng 9 (âm lịch), Vía Thần Hoàng, lễ hạ điền vào ngày 12, 13 tháng 3 (âm lịch).
Đình Tân Hoa còn tồn tại đến ngày nay trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật góp phần minh chứng cho một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Giai đoạn của các bậc tiền nhân khai phá miền nam, đầy gian lao hiển hách và chính trong hoàn cảnh như vậy họ đã tạo dựng, giữ gìn truyền thống dân tộc, thể hiện qua ngôi đình làng có giá trị cao về khoa học - nghệ thuật Công trình này rất cần sự nghiên cứu, giữ gìn, tôn tạo và quảng bá rộng rãi một cách nghiêm túc, khoa học với tinh thần trách nhiệm cao của những người hằng tâm, hằng sản, các ngành các cấp có chức năng.
Trải qua bao thăng trầm, từ khi ông cha ta bắt đầu khai hoang lập ấp, thành lập xóm làng, bị thực dân đế quốc giầy xéo…Thế nhưng mặc dù ở hoàn cảnh nào, ông cha ta vẫn cố gắng bảo tồn di sản văn hóa của mình. Với lí do đó, Đình Tân Hoa được bộ văn hóa công nhận di tích lịch sử văn hóa vào năm 1998.
6. Tóm lược thông tin về di tích
Vào khoảng giữa thế kỉ XVIII có ông Nguyễn Tự Tôn, nguyên làm quan dưới triều Nguyễn. Vì bất mãn triều đình nên từ bỏ chốn quan trường vào nam lập nghiệp. Ông đến rạch Cái Đôi nhận thấy nơi đây phong thủy tốt, cảnh vật hữu tình ông quyết định chọn nơi này tạo lập cơ nghiệp. Ông cùng gia quyến tập hợp lưu dân lập thành binh đội, tiến hành khai hoang, khẩn đất. Sau đó ông Nguyễn Tự Tôn đứng ra lập làng Tân Hoa và xây dựng đình thần với tên gọi: Đình Tân Hoa. Đình Tân Hoa được xây cất sau khi việc khai phá ấy đã hoàn thành. Ngày nay chúng ta chưa có tài liệu chứng minh niên đại xây dựng đầu tiên của ngôi đình, nhưng ngôi đình này vẫn còn lưu lại nhiều hiện vật như: Bài văn tế Thành Thần Hoàng Đại Vương, dấu ấn có từ thế kỉ thứ XIX… Đặc biệt nhất, Đình còn một biểu hiệu cổ khắc ba chữ Tân Hoa Đình theo lối triện làm trong năm Mậu Ngọ (1798), kích thước to lớn. Sau khi ông Nguyễn Tự Tôn mất, con ông là Nguyễn Văn Niệm cùng dân làng tiếp tục khai khẩn đất hoang và đến đời cháu (là ông Nguyễn Văn Bửu) làng xóm trở nên giàu có, no đủ. Lúc bấy giờ ông Nguyễn Văn Bửu đã vận động nhân dân trùng tu Đình Tân Hoa. Do những công lao ấy, Triều đình nhà Nguyễn đã tặng ông Nguyễn Văn Bửu hàm Bá hộ, được dân làng tôn là Hậu Hiền, còn ông Nguyễn Tự Tôn cũng được phong là Tiền Hiền. Cả hai được tòng sự bên Thần Hoàng Bổn Cảnh.
Vào khoảng đời vua Thiệu Trị (1841-1847) tên làng Tân Hoa do trùng tên với bà Hoàng thái hậu Hồ Thị Hoa (vợ của vua Minh Mạng, mẹ của vua Thiệu Trị) nên bị đổi thành làng Tân Hóa. Đến năm Tự Đức thứ năm ( ngày 8/1/1853) Đình làng Tân Hóa cũng như bao ngôi đình của các làng khác trong vùng đếu đồng loạt được sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng Chi Thần. Thế nhưng văn bản này không được tồn tại lâu dài, khoảng năm 1862 quân Viễn chinh Pháp đã nổ súng chiếm các tỉnh miền Đông Nam Bộ và tỉnh Vĩnh Long thì sắc thần Đình làng Tân Hoa cũng bị thiêu hủy. Do đó, khi thực hiện hiệp ước năm 1862, tỉnh Vĩnh Long được trả lại cho Triều đình Huế, chính quyền đương thời đã nhanh chóng báo cáo với Bộ Lễ đã cấp cho Đình Làng Tân Hoa một bảng sao của sắc thần này. Bảng sao của sắc thần là một tờ giấy trắng, loại giấy lệnh, viết nguyên văn đạo sắc thần dưới có dòng cữ “Lễ Bộ cung lục, Tân hoa xã tuân chiếu phụng tự”. Bên dưới chỉ đóng dấu “Lễ Bộ chi ấn”, chứ không giống các đạo sắc thần thường thấy. Đây là một việc làm nhằm mục đích tạo điều kiện bảo tồn văn hóa, mang tính chất đặc biệt.
Vào giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc, làng Tân Hóa nhập với làng Tân Hội, Tân Nhơn, lấy tên mới là Tân Hòa. Do đó năm Canh Tuất (1910) Đình Tân Hòa được trùng tu lấy tên là Tân Hòa linh miếu. Đến năm 2009 do bờ sông Cái Đôi bị sạt lỡ nên Đình được di dời về cạnh quốc lộ 80, thuộc ấp Tân Hưng, Xã Tân Hòa, Thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Hiện nay qui mô đình Tân Hoa là qui mô của đợt tái thiết này. Tất cả gồm sáu nóc, làm theo kiểu xếp đội, mang dáng dấp chung của đình làng Nam Bộ, nhưng cũng có nét riêng. Chánh điện là một ngôi nhà tứ trụ, được nới rộng ra bốn phía bằng tám kèo đấm và tám kèo quyết, còn các ngôi nhà khác như : Võ co, Võ quy, Hậu điện…đều làm theo kiểu ba gian hai chái. Nền đình xây bằng đá chẻ, lần trùng tu này đã xây tường gạch bao quanh và không dấu được dấu ấn mĩ thuật, đó là các hoa văn trên đầu cột ngoài hàng hiên phía trước. Mái đình được lợp bằng ngói âm dương nối với nhau bằng hệ thống máng xối. Các bờ nóc bờ mái được xây cao được trang trí bằng nhiều hình như: lưỡng long tranh châu, cá hóa long, phượng hàm rồng. Đáng chú ý là bộ trò bằng gỗ quí, cột đình to. Lòng căn đình rất rộng từ ba đến bốn thước. Các bộ phận chịu lực như: xuyên, trính, kèo…đều làm theo kiểu lục lăng, võ đậu, dùi ếch, nên rất cứng cáp.
Trong đình Tân Hoa còn giữ được hàng chục bộ lam, hàng chục hoành phi, câu đối rất nhiều tự khí như: lỗ bộ, lư, đỉnh, hương án, khánh thờ…đặc biệt những tác phẩm chạm trổ đều do thợ ở Tân Nhơn (xưa) thực hiện. Đáng chú ý dù qua nhiều bước thăng trầm đình vẫn còn bảo tồn được rất nhiều di vật có giá trị văn hóa lịch sử cao như: 12 bộ bao lam, 24 cặp lỗ bộ, 16 cặp liễn đối, 14 bức hoành phi cùng nhiều đồ tự khí quý hiếm khác.
Đình Tân Hoa còn một điểm rất lạ nữa đó là giữa sân đình không có đàn Thần Nông mà chỉ có một tấm bình phong đắp hình “Long hổ phụ đồ”. Còn Thần Nông được thờ ở góc bên. Tục lệ này khác hẳn với các ngôi đình ở Nam Bộ.
Hàng năm đình Tân Hoa có các ngày lễ lớn: lễ thượng điền vào ngày 11, 12 tháng 9 (âm lịch), Vía Thần Hoàng, lễ hạ điền vào ngày 12, 13 tháng 3 (âm lịch).
Đình Tân Hoa còn tồn tại đến ngày nay trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật góp phần minh chứng cho một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Giai đoạn của các bậc tiền nhân khai phá miền nam, đầy gian lao hiển hách và chính trong hoàn cảnh như vậy họ đã tạo dựng, giữ gìn truyền thống dân tộc, thể hiện qua ngôi đình làng có giá trị cao về khoa học - nghệ thuật Công trình này rất cần sự nghiên cứu, giữ gìn, tôn tạo và quảng bá rộng rãi một cách nghiêm túc, khoa học với tinh thần trách nhiệm cao của những người hằng tâm, hằng sản, các ngành các cấp có chức năng.
Trải qua bao thăng trầm, từ khi ông cha ta bắt đầu khai hoang lập ấp, thành lập xóm làng, bị thực dân đế quốc giầy xéo…Thế nhưng mặc dù ở hoàn cảnh nào, ông cha ta vẫn cố gắng bảo tồn di sản văn hóa của mình. Với lí do đó, Đình Tân Hoa được bộ văn hóa công nhận di tích lịch sử văn hóa vào năm 1998.
0 Bình luận