
Trần Khâm – Trần Nhân Tông (Mậu Ngọ 1258-Mậu Thân 1308)
Còn gọi Trần Sâm, hay Trần Khâm, vua thứ ba nhà Trần, miếu hiệu Nhân Tông, Thiền gia, cũng là nhà Phật học, đứng đầu Trúc Lâm tam tổ, phái Thiền Tông Yên Tử. Sinh ngày 11-10- 1258, con trưởng Thánh Tông.
Năm Mậu Dần 1278, ông lên ngôi, cùng với cha và các đại thần Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải chấn chỉnh việc nước, vượt khó khăn, hai lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược 1285-1287.
Triều đại ông nổi bật tinh thần quân dân đoàn kết, nổi tiếng qua hai cuộc Hội nghị Diên Hồng và Bình Than.
Năm Qúi Tị 1293 ông nhường ngôi cho con là Trần Thuyên (tức Anh Tông) làm Thái thượng hoàng, cùng con coi sóc việc chính trị.
Đến năm 1299, ông hoàn toàn phủi sạch trần tục, lên núi Yên Tử ẩn tu, pháp hiệu là Hương Vân đại đầu đà, khai sáng Thiền tông phái Yên Tử, cũng gọi là phái Trúc Lâm. Do đó, nhân dân cũng gọi ông là Trúc Lâm đại đầu đà hoặc Điều Ngự giác hoàng.
Ngày 3-10 Mậu Thân , ông mất tại Yên Tử, hưởng dương 50 tuổi. Ông có soạn các sách:
Trung hưng thực lục
Thiền lâm thuyết chung ngữ lục
Tăng già toái sự
Trần Nhân Tông thi tập
Thạch thất mị ngữ
Đại Hương Hải ẩn thi tập.
Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm.
Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điều ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam, có vai trò lãnh đạo quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ 2 và thứ 3.
Thân thế
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng Một âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức 7 tháng 12 năm 1258).
Cai trị
Ngày 22 tháng Mười âm lịch năm Mậu Dần (tức 8 tháng 11 năm 1278), ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
Chống quân nhà Nguyên
Bài chi tiết: Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2
Năm 1258, quân Mông Cổ từng thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống.
Năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Đại Nguyên thôn tính. Tháng 8 năm này, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.
Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan.
Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.
Năm 1293, ông nhường ngôi cho con trưởng là Trần Thuyên để làm Thái thượng hoàng, lui về Thiên Trường theo lệ truyền thống của các Thượng hoàng. Trần Thuyên lên ngôi tức Trần Anh Tông.
Cứng rắn với con cái
Bấy giờ Anh Tông còn mê rượu chè, một hôm vua uống rượu xương bồ say khướt. Lúc đó Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường trở về kinh sư,các quan trong triều không ai biết cả.
Thượng hoàng thong thả đi thăm khắp các cung điện, từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Cung nhân dâng bữa, Thượng hoàng ngoảnh nhìn không thấy vua, lấy làm lạ, hỏi là: Quan gia ở đâu?. Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng ngài không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.
Đến giờ Mùi vua mới tỉnh, cung nhân đem việc ấy tâu lên. Vua sợ quá, đi rảo ra khỏi cửa cung không thấy ai coi giữ; qua chùa Tư Phúc, thấy học sinh Đoàn Nhữ Hài ở cửa chùa. Vua bèn dẫn Nhữ Hài vào buồng ngủ và bảo:
"Vừa rồi trẫm vì say rượu, có tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến trước mặt ngài tạ tội, ngươi hãy thảo cho trẫm bài biểu".
Nhữ Hài đứng trước mặt vua, soạn xong tờ biểu. Vua bèn lấy thuyền nhẹ đi ngay, cho Nhữ Hài theo mình.
Sáng sớm hôm sau, vua tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội. Thượng hoàng thấy Nhữ Hài, liền hỏi là người nào. Nội nhân trả lời là người dâng biểu của Quan gia. Thượng hoàng không nói gì.
Buổi chiều, mưa gió ập đến. Nhữ Hài vẫn cứ quỳ không nhúc nhích. Thượng hoàng hỏi: "Người ở trong sân có còn đấy không?". Nội nhân đáp rằng còn. Thượng hoàng bèn sai nhận biểu để xem, thấy lời lẽ khẩn thiết cho gọi vua vào bảo:
"Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau này?".
Vua rập đầu tạ tội.
Niên hiệu
Thiệu Bảo (1278 - 1285)
Trùng Hưng (1285 - 1293)
Xuất gia
Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử(còn gọi là phái thiền Trúc Lâm hay Trúc Lâm Tam tổ), lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này.
Ông qua đời ngày 3 tháng Một âm lịch năm Mậu Thân (tức 16 tháng 12 năm 1308), được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
Tại Hà Nội có phố Trần Nhân Tông trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
Tác phẩm
Tác phẩm của Trần Nhân Tông có:
Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền)
Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng)
Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá)
Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm)
Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông)
Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược.
Các phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 25 bài thơ chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục.
Giới thiệu thi phẩm
Thiền sư Việt Nam
Tam.jpg
Sơ khai
Khương Tăng Hội, Mâu Tử
Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi
Pháp Hiền, Huệ Nghiêm, Thanh Biện
Định Không, Đinh La Quý, Vô Ngại
Pháp Thuận, Thiền Ông, Sùng Phạm
Ma Ha, Pháp Bảo, Vạn Hạnh
Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát
Thuần Chân, Đạo Pháp, Huệ Sinh
Minh Không, Bản Tịch, Thiền Nham
Quảng Phúc, Khánh Hỉ, Giới Không
Pháp Dung, Thảo Nhất, Trí Thiền
Đạo Lâm, Chân Không, Tịnh Thiền
Diệu Nhân, Viên Học, Viên Thông,
Y Sơn
Thiền phái Vô Ngôn Thông
Cảm Thành, Thiện Hội, Vân Phong
Khuông Việt, Đa Bảo, Định Hương
Thiền Lão, Viên Chiếu, Cứu Chỉ
Bảo Tính, Minh Tâm, Quảng Trí
Lý Thái Tông, Thông Biện, Đa Vân
Mãn Giác, Ngộ Ấn, Biện Tài
Đạo Huệ, Bảo Giám, Không Lộ
Bản Tịnh, Bảo Giác, Viên Trí
Giác Hải, Trí Thiền, Tịnh Giới
Tịnh Không, Đại Xả, Tín Học
Trường Nguyên, Tĩnh Lực, Trí Bảo
Minh Trí, Quảng Nghiêm, Thường Chiếu
Trí Thông, Thần Nghi, Thông Thiền
Hiện Quang, Tức Lự, Ứng Thuận
Thiền phái Thảo Đường
Lý Thánh Tông, Bát Nhã, Ngộ Xá
Ngô Ích, Hoằng Minh, Không Lộ, Định Giác
Đỗ Anh Vũ, Phạm Âm, Lý Anh Tông, Đạt Mạn
Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Đỗ Thường
Hải Tịnh, Lý Cao Tông, Nguyễn Thức, Phạm Phụng Ngự
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Đạo Viên, Thông Thiền, Nhật Thiển, Tức Lự
Chí Nhàn, Ứng Thuận, Tiêu Dao
Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông
Trần Nhân Tông, Thạch Kim
Pháp Loa, Hương Sơn, Pháp Cổ
Huyền Quang, Cảnh Huy, Quế Đường
Chuyết Chuyết, Chân Nguyên, Liễu Quán, Hương Hải
Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ Thiền xuất sắc trong dòng thơ thời Lý-Trần.
Xuân hiểu
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
Buổi sớm mùa xuân
Ngủ dậy ngỏ song mây
Xuân về vẫn chửa hay,
Song song đôi bướm trắng,
Phất phới sấn hoa bay.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Hạnh Thiên Trường hành cung
Cảnh thanh u vật diệc thanh u
Thập nhất tiên châu thử nhất châu.
Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,
Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
Kim niên du thắng tích niên du.
Dạo chơi hành cung Thiên Trường
Cảnh thanh u vật cũng thanh u
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát
Nghìn hàng đám quít, đám quân hầu
Trăng vô sự chiếu người vô sự
Nước có thu lồng trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng
Độ xưa so với độ nay thua.
(Bản dịch Khuyết danh)
Cư trần lạc đạo phú
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch nghĩa:
Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi thiền nữa.
Cảnh thanh u vật cũng thanh u
Gia quyến
Vợ:
Bảo Thánh hoàng hậu hay Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu (?-13/9/1293), con gái Trần Hưng Đạo.
Tuyên Từ hoàng hậu hay Tuyên Từ thái hậu (?-19/8/1318)
Con trai:
Hoàng Thái Tử -> Anh Tông Trần Thuyên (con của Bảo Thánh Hoàng Hậu)
Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (29/1/1281-3/1328)
Con gái:
Công chúa Huyền Trân
Công chúa Trần Khắc Hãn (người con thứ tư)
Tượng Giác Hoàng Trần Nhân Tông đặt trong tháp Huệ Quang
Nhận định
Đại Việt sử ký toàn thư của các sử gia thời Hậu Lê nhận định về ông:
"Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân."
—Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.